Dục vọng trong tiểu thuyết chiến tranh VN

Thập kỷ văn học Việt Nam thời hậu chiến 1986 – 1996 ngoài những mảng sáng tối về chiến tranh khốc liệt máu lửa, những phút giây bi tráng của mỗi cá nhân trong bức tranh chung của dân tộc vẫn còn có một góc nhỏ nhạy cảm nhưng không kém phần quan trọng – cái tôi dục vọng đầy bản năng, hiện thực, và cấp thiết. Bài viết này xin được đăng bài báo của tác giả Nguyễn Thị Xuân Dung (nguồn: eVan) viết về chủ đề này với cái nhìn sâu rộng khoáng đạt hơn, cũng là điểm qua một vài tác phẩm thuộc loại “nóng” của một thời ^^ (Các hình ảnh được thêm vào để minh hoạ bởi YILKA, tác giả gốc giữ bản quyền nội dung).

=====

Dục vọng trong tiểu thuyết VN về chiến tranh từ 1986 đến 1996

(Nguyễn Thị Xuân Dung)

Tình yêu là vấn đề muôn thuở của văn học nghệ thuật. Nhưng đằng sau lớp vỏ ngôn từ, tình yêu thường không chỉ hiện ra trong vẻ đẹp thanh khiết, linh diệu của trái tim, của tâm hồn mà bao giờ cũng được gắn liền với tình dục, với những yếu tố thuộc về bản năng và ham muốn đời thường. Điều này cũng tương đối dễ hiểu, vì theo triết lý nhà Phật, dục tính chính là nhân tính. Con người bao giờ cũng muốn phóng khoáng, tự thỏa mãn nhưng ít khi dám nhìn thẳng vào bản thân và đối diện với chính mình. Họ ngượng ngập tìm cách che giấu dục vọng, kìm nén nó để vững tin bước qua ranh giới của luân lý xã hội. Nhưng chính lúc gạt bỏ luân lý để sống cho bản năng, cho dục vọng của mình, con người mới thực sự là con người theo đúng nghĩa. Trong văn học nói chung, có những tác phẩm từng bị xem là “dâm thư” nhưng lại có giá trị và sức sông vĩnh hằng, chứa đựng cả vấn đề văn hóa xã hội, cả triết lý sống và hệ giá trị chuẩn mực của con người như: Nghìn lẻ một đêm, Hồng lâu mộng, Kim Bình Mai, Truyện Kiều

Trước 1975, do hoàn cảnh đặc biệt của chiến tranh, chúng ta đã tiếp thu tư tưởng Nho giáo trước đây về mẫu hình người quân tử “sát thân thành nhân”, “xả sinh thủ nghĩa” để đưa ra khẩu hiệu mới “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” của người chiến sĩ cách mạng toàn tâm hướng vào mục tiêu phục vụ tổ quốc. Theo đó, văn học thời chiến bao giờ cũng miêu tả người lính trong thái độ khắc kỷ, không suy nghĩ cho riêng bản thân mà bao giờ cũng sống cho cộng đồng, chết cho Tổ quốc. Tình cảm của họ gắn liền và đại diện cho những tình cảm lớn lao, vĩ đại của toàn dân. Vì vậy, với hình dáng của một thánh nhân, người lính trong tiểu thuyết viết về chiến tranh trước năm 1975 thường bị gạt bỏ đi những gì thuộc về đời sống riêng tư, tình cảm cá nhân, những vấn đề thuộc về bản năng lại càng bị cấm kỵ.

Sau 1975, chiến tranh đã kết thúc và trong sự nhìn nhận, đánh giá, chiêm nghiệm về “những ngày tháng đau thương nhưng huy hoàng” đó, tiểu thuyết về chiến tranh đã chạm đến những vấn đề thuộc về đời tư, bản nhiên của con người. Đặc biệt là từ sau 1986, trong tinh thần đổi mới, cùng với sự thay đổi quan niệm về hiện thực chiến tranh cũng như quan niệm nghệ thuật về con người, những yếu tố của đời sống cá nhân ngày càng được đào sâu hơn và trở thành một đề tài nóng bỏng thu hút sự quan tâm của các nhà văn.

Chiến tranh là sự cô đặc của cuộc sống và tất cả những biểu hiện của cuộc sống đời thường đều có thể tìm thấy trong chiến tranh. Ở đó con người sống mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn, gấp gáp hơn. Họ ít có thời gian để cân nhắc, lựa chọn kỹ càng cho một hành động, nhất là ở những thời khắc giao thời, ở ranh giới giữa sự sống và cái chết, sự bộc lộ và hướng về cái bản năng, cái tự nhiên là một điều dễ hiểu.

Trong Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai), bên cạnh phẩm chất anh hùng, người lính còn có những khao khát rất đời thường. Cái thiêng liêng, hào hùng và cái dục vọng, tầm thường cứ đan xen, trộn lẫn vào nhau trong mỗi con người. Tám Tính đánh giặc kiên cường là thế nhưng cứ “đến giờ mụ mị. Không biết nói, không biết đẩy đưa, tán tỉnh, chỉ biết thèm, biết ào ào bươn tới. Cứ thấy hơi hướng đàn bà, bất kể già trẻ lớn bé, miễn là có da có thịt là tâm thần bấn loạn, mắt nhìn như lồi ra, toàn thân cứng ngắc như bị thôi miên, như bị hóa thạch, như cái dáng ngồi lì lợm kia. Ngồi rất lâu, ngồi im lìm, chẳng ho hắng, chẳng ngọ nguậy, chỉ thở, chỉ như rên. Rồi vào một thời điểm nào đó lý trí mất hoàn toàn khả năng kiểm soát, không đắn đo, không nghĩ ngợi, không cần biết đối tượng là ai, hậu quả gì sẽ xảy đến …”. Cái tật mê gái, “vồ” gái tưởng như rất tầm thường và thô tục ấy lại chính là cội nguồn sinh lực, làm sống dậy và bùng lên khát vọng sống, khát vọng làm người của nhân vật này. Mặc dù bị thương rất nặng, tưởng như không thể qua khỏi sau một trận đánh, nhưng nhờ sức quyến rũ của màu trắng và mùi thơm từ bộ ngực cô y sĩ mà Tám Tính đã có được một sức sống kỳ lạ, để suy nghĩ và vượt qua cái chết: “Cuộc đời còn đang đẹp thế, đàn bà con gái còn đang nhiều quá trời, thơm tho thế, chết uổng lắm, ráng mà sống, sống què quặt cũng được …”.

Và cũng rất bình thường khi nhà văn miêu tả nỗi khao khát tình dục đau đớn và nghiệt ngã của Khiển, một chàng ngư dân hai mươi mốt tuổi đầy nhiệt huyết, phải xa người vợ mới cưới để vào chiến trường, lầm lũi, cô đơn cất giấu và mở ra cho riêng mình những kỷ niệm đặc biệt của những giây phút vợ chồng. Vì thế, “những vật thể lỏng màu trắng đục từ mép võng tia nhẹ xuống thảm lá rừng khô cũng như bàn tay thẫn thờ của Khiển nhặt mấy chiếc lá khô khác đậy điệm kỹ càng lên cái vật thể đó như thể chôn cất rồi vật mình nằm ngửa ra, mặt nhìn xuyên qua vòm lá vào bầu trời chan hòa ánh nắng, buồn rười rượi …” không phải là hình ảnh của cái xấu mà chính là một ham muốn rất bình thường thấm đẫm nước mắt, thấm đẫm nỗi đau của con người. Cái vô lý, cái tàn bạo của chiến tranh đã làm hợp lý hơn những khao khát trần trụi của họ.

Chiến tranh tàn phá về vật chất, gây nên những mất mát đau thương trên thân thể, trong tâm hồn, nhưng trước hết và trên hết, nó đã làm ức chế, tước đoạt những nhu cầu tự nhiên nhất của bản năng con người. Thèm khát để thỏa mãn nhu cầu trong hoàn cảnh khó khăn và thiếu thốn đến kinh khủng ở ranh giới mỏng manh giữa sự sống và cái chết thì không bao giờ đáng trách.

Chuyện tình ngắn ngủi của Tuấn và Thu vội vàng, nông nổi nhưng vô cùng mãnh liệt và dữ dội. Nếu theo tư duy nhìn con người dưới góc độ thánh nhân như trong tiểu thuyết trước năm 1975, mấy ai chấp nhận được lời thú nhận vô tư, chân thành mà… tội lỗi của Tuấn: “Em đã phải dùng cả hai tay nắm chặt đầu dây võng đu rướn người lên. Mỗi lần rướn là mỗi lần đưa cả thân hình Thu lên theo tới nửa mét. Rồi lại buông xuống. Cứ thế rướn rồi buông, buông rồi lại rướn, hai đứa miết vào nhau, quay cuồng đảo lộn, thây kệ cho vải võng kêu như pháo rít. Mà pháo có rít thật lúc ấy cũng mặc, thậm chí nếu anh có đứng bên cạnh và quát: “Đồng chí Tuấn! Tôi sẽ khai trừ Đảng đồng chí!” thì em cũng đành để bị khai trừ quá!”.

Sự bùng dậy của bản năng đã làm sống thêm một tình yêu, đẹp hơn một tình người, cao quý hơn lòng hy sinh và đau hơn nữa những nỗi mất mát. Mặc cho kẻ địch truy lùng, mặc cho cái chết đang đe dọa, mặc chiến tranh, mặc súng đạn, tình yêu giữa Hai Hùng và Ba Sương vẫn ngọt ngào và thắm thiết; trong căn hầm bí mật, nơi sự sống mong manh và cái chết gần kề, họ đã trao cho nhau giây phút dịu ngọt và tuyệt vời nhất: “Buổi sáng hôm đó, với tất cả sức lực của tuổi trẻ, của mười năm dồn nén, của hết thảy những khổ đau, mất mát và dịu ngọt đã trải qua, sắp trải qua hay không bao giờ còn dịp được trải qua nữa, chúng tôi, hai sinh vật của thời loạn đi vào nhau trọn vẹn, đam mê tột cùng và ngậm ngùi tột độ …”.

Khi đã yêu thực sự, trong tâm tưởng ai chẳng có khao khát được hiến dâng cho nhau trọn vẹn, ai chẳng muốn dành cho nhau thời khắc tột cùng của hạnh phúc? Họ đã đi vào nhau chính lúc cái chết đang treo lơ lửng trên đầu, chính khi con người không thể tự tin vào sự sống của ngày mai, họ trao cho nhau tất cả để mà vực dậy và động viên nhau vượt qua nguy hiểm, chính bản năng đã khơi dậy sự sống và làm cho tình yêu nở hoa.

Đọc Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), mấy ai có thể quên chuyện yêu đương kỳ lạ của phân đội trinh sát với ba cô gái Mây, HBia, Thơm thuộc khu trại tăng gia huyện đội 67 bị bỏ quên bên kia núi truông Gọi Hồn. Họ tìm đến với nhau, cùng nhau thỏa mãn nhu cầu dục vọng nhưng cũng là để gieo cho nhau sức mạnh và niềm tin trong cõi chết, trong thẳm sâu bất tận của “cõi không nhà, không cửa, lang thang khốn khổ và phiêu bạt vĩ đại, là cõi không đàn ông, không đàn bà, là thế giới bạt sầu vô cảm và tuyệt tự khủng khiếp nhất của dòng giống con người”. Chuyện của họ lạ lùng đến bất ngờ, bản năng nhiều hơn tình yêu: “không phải là cả phân đội, cả mười ba người, song cũng không phải chỉ có ba cái bóng nhất định nào đấy trong bấy nhiêu đêm” nhưng vì thời buổi chiến tranh là thời buổi ngược đời nên những chuyện khủng khiếp nhất vẫn có thể xảy ra và con người phải chấp nhận nó một cách bình thường để tiếp tục sống và tiếp tục chiến đấu.

Câu chuyện tình “bi thảm và mông muội” của họ đã làm cho Kiên “đau đớn, vừa xót thương, vừa giận, tủi, ngờ vực và lo sợ”, để rồi nó lại thôi thúc ở mỗi người đọc phải nhìn nhận lại cho kỹ càng hơn sự khốc liệt và nghiệt ngã mà mỗi con người trong chiến tranh phải gánh chịu. Cái đói, cái rét, cái chết, sự thiếu thốn về vật chất, về tình yêu… đã khiến những người lính thèm khát biết bao những giây phút ngọt ngào của kỷ niệm, dù chỉ là giấc mơ, dù chỉ là giả dối nhưng họ vẫn khao khát được đắm chìm, đê mê trong những thời khắc tuyệt đẹp ấy.

Kiên và đồng đội sấy bông hoa hồng ma kỳ bí trộn với thuốc rê để hút, để được nhập thân hoàn toàn, ngụp lặn trong những giấc mơ bí ẩn và tráng lệ mà lúc bình thường tâm hồn chẳng thể với tới. Trong những ảo giác mà khói hồng ma đem lại, họ có thể “quên mọi nông nổi đời lính, quên đói khổ, chết chóc, quên béng ngày mai” và họ được trở về với những ước mơ của chính họ, được chiếm hữu những gì còn thiếu thốn và luôn hau háu chờ đợi. Bản thân Kiên được trở về với Hà Nội cổ kính và tráng lệ, với những kỷ niệm về Phương – mối tình đầu trong sáng và tươi đẹp. Còn đồng đội của anh thì “mỗi người mỗi kiểu say sưa mơ màng trong khói hồng ma. Mỗi người mỗi lối đi lạc khỏi thực cảnh chung. Như Cừ thì rượu sắn hay hồng ma đều chỉ khuấy lên độc một cảnh tượng ủy mị, khó tin của ngày trở về với những sum họp đoàn tụ dễ chịu đến nỗi nghe Cừ kể lại ai cũng rớt nước mắt với hắn. Còn Vĩnh thì chỉ rặt mơ thấy đàn bà, và hắn thường xuyên khoái trá tả thực cho anh em nghe về những cuộc làm tình tưởng tượng vô cùng tham lam, phức tạp rất ngóc ngách, đầy kỳ thú và sống sượng với chị em huyền thoại của hắn. Còn Tạo “voi” lại đặc biệt hay mơ sự ăn uống. Không chỉ mơ được ăn no, Tạo còn vẽ ra trong đầu những mâm cỗ ăm ắp những món ăn béo bở do tâm thần mộng mị của hắn bịa tạc nên”.


Giấc mơ – tranh sơn dầu của Nguyễn Quang Thiều

Người ta thường mơ về những điều xa vời không có thực trong cuộc sống, giấc mơ của những người lính đã khắc họa rõ nét sự thiếu thốn đến kinh hồn, sự thèm khát đến cháy bỏng những nhu cầu bình thường nhất trong hoàn cảnh khắc nghiệt ấy. Vì thế, đến với hoa hồng ma là một bản năng nhưng thông qua đó để con người ta hướng về những khao khát của tính người và tình người. Họ đã nghiện hút – một hành động không lành mạnh để truy lùng một đời sống lành mạnh, vui vẻ và hạnh phúc. Ngay chính Kiên, người lính may mắn được sống sót trở về trong ngày hòa bình thì trên chuyến tàu xuyên Việt năm 1976, trong sự sống dậy và điều khiển của dục vọng anh đã tìm thấy những giây phút hạnh phúc cuối cùng của đời lính bên cô thương binh Hiền như một sự bù đắp, khi con người ta choáng váng và có cảm giác chưa thoát ra khỏi sự khắc nghiệt của chiến tranh: “Suốt đêm, trong nhịp tàu dồn dập lắc lư, mặc kệ rằng xung quanh lính tráng đùa cợt trêu chọc, hai người thoải mái ôm xiết lấy nhau mà ngủ, cùng nhau nói mê, thỉnh thoảng thức dậy càng ôm chặt nhau, thỏa sức hôn hít nhau, sống gấp lên với nhau những cây số cuối cùng còn vương lại của tuổi thanh xuân chiến hào”. Những con người như thế, những hành động như thế cần ở chúng ta sự thông cảm hơn là chê cười và trách móc.

Trong Những mảnh đời đen trắng (Nguyễn Quang Lập), những câu chuyện “rối rít đực cái muôn đời” được tác giả miêu tả rất nhiều nhưng bao giờ gắn liền với nó cũng là vấn đề đạo đức, vấn đề tình người. Chẳng hạn như nói về mối tình của Hoàng và Thùy Linh, Đại úy Thìn đã vô cùng sửng sốt, “mắt trợn ngược lên” nhìn vào cái cảnh mà ông không thể tin nổi: “Hai đứa trẻ hỷ chưa sạch mũi đang trần truồng trước mắt ông. Cái gì thế? Cái gì thế? Vú và đùi, mông và mông trắng đầy trên cái giường cưới của vợ chồng ông. Môi đứa này áp vào má đứa kia, bốn cánh tay trần cuốn lấy nhau chặt khư“.

Nhưng cuộc giao hoan điên dại của Hoàng và Thùy Linh chính là một cách để họ chống trả lại nỗi cô đơn khủng khiếp đang phủ kín lên tâm hồn mỗi người. Chiến tranh và sự tham gia của con người vào chiến tranh đã để lại những khoảng trống tình thương quá lớn, cái tai họa sau lưng chiến tranh gieo vào con người nỗi cô độc đến lạnh lùng, sẽ đau đớn như thế nào nếu nỗi buồn và sự cô đơn lạc lõng của con người đã đi đến tột cùng nhưng không thể tìm kiếm sự chia sẻ, cảm thông của bất cứ ai khác. Khi đó, sự chống đỡ duy nhất con người ta có thể làm, không phải là cách tốt nhất nhưng là cách đơn giản nhất và cũng dễ được thông cảm, là trở về sống với cái bản năng của chính mình, ở đó vừa có sự thiêng liêng vừa có sự hèn hạ, nhưng nó cho con người cảm giác được thỏa mãn, được hạnh phúc, được sẻ chia.

Hay trong Bến không chồng (Dương Hướng), sự kết tụ và ngưng đọng đến mức dày đặc, không thể giải tỏa của nỗi buồn, nỗi cô đơn khi một người đàn bà trẻ đẹp, đang ở tuổi xuân xanh căng tràn nhựa sống phải sống xa chồng, lầm lũi trong cảnh bặt vô âm tín do sự chia cắt của chiến tranh, đã giày vò Hạnh, xé nát trái tim cô. Cảnh nổi loạn của Hạnh ở “Bến không chồng” là sự thấm thía, xót xa cho cuộc đời thụ động chỉ biết chờ đợi và hy vọng vào cuộc chiến tranh tàn bạo và vô lý ấy. Hạnh ngâm mình dưới “Bến không chồng”, để mặc cho thân xác cô cuồng loạn trong nỗi khát thèm nhục dục: “Cơ thể lâu ngày khô héo bỗng rạo rực, ngập tràn hưng phấn. Hạnh vùng vẫy, quẫy đạp trong ham muốn làm tình với nước”. Đó là giây phút của bản năng, còn sau đó Hạnh vẫn là một người phụ nữ thủy chung thủ tiết chờ chồng. Ở đây, chiến tranh không hủy diệt được sự son sắt và vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam.

Với Nguyễn Vạn, con người muốn làm mực thước, làm thánh nhân để xứng đáng với sự ngưỡng mộ của dân làng và đã hy sinh một đời cho ảo tưởng đó trong cuộc sống khắc kỷ đến ngốc ngếch, cũng không thể thoát khỏi sức cuốn mạnh mẽ của bản năng: “Nguyễn Vạn bàng hoàng cả người không hiểu mình đang mơ hay tỉnh. Men rượu vẫn nung nấu trái tim làm tâm trí Nguyễn Vạn quay cuồng. Da thịt đàn bà nần nẫn trong vòng tay và hơi thở đầy dục vọng phả vào mặt Vạn. Sự ham muốn của Nguyễn Vạn lần này còn mãnh liệt hơn lần Vạn chạm vào ngực mụ Hơn. Vạn buông thả cho thân xác tự do gây tội lỗi, tự do rên xiết trên thân thể rừng rực của người đàn bà. Lần đầu tiên trong Vạn thấy sung sướng cực độ và quên hẳn mình. Mưa gió vẫn ràn rạt ngoài cửa …”.

Phần người, phần bản năng đã chiến thắng phần thánh nhân của Vạn – con người ta không thể mãi mãi ép xác theo lý tưởng và ảo tưởng của mình. Phút giây bản năng trỗi dậy là khi Nguyễn Vạn sống bằng dục vọng, sống cho dục vọng nhưng không phải là lúc Nguyễn Vạn bị trụy lạc mà đó chính là thời khắc anh được làm người – một con người đúng nghĩa.

Tình yêu muôn đời không có tội, chỉ có những thế lực cản trở tình yêu mới là tội lỗi. Bản năng của con người cũng đáng được thông cảm khi họ bị đặt vào một hoàn cảnh quá nghiệt ngã và tàn khốc, khi con người không thể dự đoán và tự định đoạt cho số phận của mình.

Trong tiểu thuyết viết về chiến tranh từ 1986 – 1996 ta thấy hầu như tác phẩm nào cũng có đề cập đến chuyện bản năng, tình yêu – tình dục của con người và thể hiện nó một cách tự nhiên, chân thực. Điều đó càng phản ánh rõ hơn bộ mặt trần trụi của chiến tranh và số phận khốc liệt của con người trong hiện thực tàn bạo ấy, qua đó hợp lý hóa đời sống bản năng của con người, đề cao nó trong một tinh thần nhân văn cao đẹp; lên án, phê phán chiến tranh là một thế lực phi nhân tính đã tước đoạt, cướp mất của con người quyền được sống với chính những nhu cầu bình thường và thiết yếu của họ.

So với giai đoạn trước đây, đó là một biểu hiện mới, một cách tân mới của tiểu thuyết về mặt quan điểm khi viết về cuộc chiến tranh đã qua. Dục vọng và bản năng của con người được miêu tả đầy rẫy trong chiến tranh nhưng không phải để phê phán con người mà là để tố cáo chiến tranh với sức tàn phá, hủy diệt ghê gớm của nó, không cho con người có quyền được sống như chính họ mong muốn và khao khát. Vì thế đó là một biểu hiện của tư tưởng nhân văn cao đẹp, một tiếng nói cho khát vọng con người 🙂

======

Căn nhà số 11 – Nguyên Minh

Trong văn học Việt Nam, có những cuốn sách nếu đã cầm lên, người đọc sẽ bị cuốn hút vào từng trang viết, để khi đọc xong gấp sách đặt xuống rồi vẫn thấy miên man xúc động bởi những hồi tưởng sâu lắng, những câu chuyện cô đọng và giản đơn nhưng có lẽ cần thời gian của cả đời người để trải nghiệm và đúc kết. Bạn đọc chắc đã quen thuộc những cái tên như Vang bóng một thời (Nguyễn Tuân), Gặp gỡ cuối năm (Nguyễn Khải), Tôi đã không quên (Lê Minh Khuê), Thời xa vắng (Lê Lựu), hay Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh); bài viết này nhằm giới thiệu một tác phẩm khác như thế: Ngôi nhà số 11 của Nguyên Minh.


(Tranh phố của cố hoạ sĩ Bùi Xuân Phái)

Nhà văn Nguyên Minh sinh năm 1941, viết văn từ năm ông 17 tuổi. Trước năm 1975, ông chủ trương tạp chí Ý Thức và làm việc trong NXB Ý Thức (1970-1975). Sau năm 1975, ông gác bút đến năm 2000 mới viết lại. Một số tác phẩm đã in: Căn Nhà Hoang (2000), Tưởng chừng đã quên , và sắp xuất bản cuốn Tiếng rống biệt ly.

Căn nhà số 11 là cuốn tiểu thuyết mà Nguyên Minh viết sau giải phóng và mới được xuất bản cuối năm 2009. Thoạt nhìn cuốn truyện không có gì bắt mắt, chỉ như 1 cuốn tiểu thuyết trung tầm bày bán nhan nhản trên các kệ sách và lề đường thời đại đa thư này, nếu không muốn nói là nó hoàn toàn mờ nhạt giữa chồng sách của các cây bút trẻ và các truyện dịch thời thượng bìa đầy hào nhoáng nhưng nội dung rỗng tuyếch. Rất tình cờ người viết ‘nhặt’ được Căn nhà số 11 trong một ngày như thế giữa Sài Gòn sôi động và lập tức bị thu hút bởi bối cảnh ly kỳ cùng với thiên truyện độc đáo ^^

Câu chuyện xoay quanh cuộc sống của nhân vật “tôi” những năm đất nước còn chia cắt và cho đến sau này khi đã thống nhất 2 miền, những quan hệ ruột thịt cha anh, những người quen biết, những câu chuyện về bạn đời, bạn tình và bạn hữu và cả những người lạ mặt chỉ gặp đôi lần. Lấy bối cảnh từ căn nhà số 11, Nguyên Minh lần lượt dành từng chương truyện để kể về mỗi nhân vật của ông: Ông Bầu, Thủ Môn, Hậu Vệ, Tiền Vệ, Trung Phong … mỗi người trong số họ lại có những kỷ niệm riêng với nhân vật ‘tôi’, mỗi người lại có những cuộc sống riêng, tính cách riêng, và cả những tình yêu và bi kịch riêng; để đến vài chục năm sau này khi đã qua bên kia con dốc cuộc đời, ‘tôi’ lại mường tượng ra mồn một số phận của mỗi người, lại đôi lần khắc khoải bởi quãng thời gian tươi đẹp nhưng cũng không thiếu phần cơ cực đã qua. Đan xen trong mỗi trang viết là dòng ký ức bất tận về hình ảnh người cha, người mẹ, người anh trai và 3 người phụ nữ trong cuộc đời nhân vật ‘tôi’ …

Đã 25 năm tôi gác bút, tưởng chừng không còn gì nữa để phải viết lên trang giấy, trải lòng mình vào chữ nghĩa văn chương, dù đời tôi có bao nhiêu đau khổ ê chề sau mộ cơn biến động lịch sử kinh hồn đã quăng tôi và bạn bè ra tứ phía.

Những nhân vật trong truyện của tôi sau này đều là những người thân yêu. Người yêu cũ. Người vợ hiền. Cô bạn láng giềng ngây thơ ngày thơ ấu. Người Mẹ bao dung. Người cha khắc nghiệt. Những người bạn cùng say mê văn chương. Thời thanh xuân chúng tôi cùng nhau làm một tạp chí văn học nghệ thuật mang tên Ý Thức. Tất cả những người thân yêu đó, bấy lâu tưởng đã hóa đá trong tâm hồn tôi, sau bao nhiêu năm tháng, một hôm bỗng rủ nhau trở lại thành người, đánh thức tôi, gợi lại những xúc cảm mới. Tôi nghĩ về họ. Tôi nghiệm ra rằng, từ thưở ấu thời đến tuổi xế chiều, họ đã cho tôi biết bao nhiêu điều muốn nói. Tất cả những người thân yêu đó đã quyện vào tôi như nhập thành một. Tại sao tôi phải im lặng.

Bằng giọng kể ấm áp, văn phong chắc gọn sâu lắng, Nguyên Minh đưa người đọc đi qua quãng đường dài 15-20 năm, đánh dấu bằng những thăng trầm trong cuộc sống mỗi nhân vật giữa những biến chuyển của lịch sử lớn lao của dân tộc, gợi mở từ từ từng ký ức ngày ấy – bây giờ, những gì một thời vang bóng và tưởng chừng đã quên … Không quá cao trào, không nhiều kịch tích, phong cách của Nguyên Minh khiến bạn đọc thấy sự thân thuộc và đồng điệu giữa Căn nhà số 11Gặp gỡ cuối năm, Người của một thời của Nguyễn Khải, cũng thấy trân trọng hơn sự lao động nghiêm túc miệt mài đôi khi khắc nghiệt trong từng chương truyện của ông.

Thông tin về Nguyên Minh cũng như các tác phẩm của ông không nhiều, có thể tạm coi ông như cây bút thể loại ký/tự sự, đã bắt đầu nghiệp văn từ trước năm 75 nhưng sáng tác có phần đứt đoạn do bối cảnh lịch sử; người viết bài này muốn dành đôi dòng ngắn ngủi trong blog này để vinh danh ông qua tác phẩm Căn nhà số 11 🙂 nhất là trong lúc việc giới thiệu kho tàng văn học miền Nam trước 1975 vẫn còn hạn chế và cầm chừng.