Kashmir – Nơi bình minh yên tĩnh (P7 – Hết)

Ngày cuối không vội vàng, chúng tôi thong thả ăn sáng trước khi ra sân bay, chuyến bay từ Leh về Delhi khởi hành lúc 10.30. Sau màn kiểm tra kỹ lưỡng (gồm cả việc tự khai vào sổ thời gian lưu trú kèm tên khách sạn ở Leh cho đến việc mở hành lý và tháo giầy), tất cả cũng đã yên vị trên máy bay và cuộc gặp gỡ tình cờ với ông Narboo như 1 đoạn kết có hậu sau 6 ngày du ký Ladakh đầy cảm hứng. Ngay trước khi rời máy bay, ông còn kịp ghi cho tôi địa chỉ trang web của hotel mà gia đình ông giờ đang mở ở Leh với lời nhắn: “my place is silently beautiful!“. Không biết còn dịp nào chúng tôi gặp lại nhau, bạn đọc nếu có Ladakh trong danh mục những điểm đến tham quan thì có thể xem xét thêm về Hotel Shambhala của ông Narboo: http://www.hotelshambhala.com/

Tháng 5 vẫn còn là mùa thấp điểm ở Ladakh, trời vẫn còn lạnh và nhiều mây, nhưng Delhi thì đã thừa nắng gió. Chỉ có vài tiếng ở Delhi, chúng tôi không biết làm gì để tiêu hết thời gian nên mua vé tàu cao tốc chạy vào trung tâm, đi thăm Lăng mộ vua Humayun (Humayun’s Tomb). Gửi bạn đọc vài hình ảnh lang thang nơi này:

Xây theo kiến trúc Mughal (tương tự kiến trúc của Taj Mahal), Hamayun là sự kết hợp đối xứng chuẩn mực của mái vòm, của chính, cửa sổ, các gian phòng rộng lớn mà bên ngoài là tường đá phiến trắng-đỏ, bên trong là không gian rộng lớn và mát mẻ.

Đuối sức vì trời nóng, chúng tôi cũng không sục sạo mọi chỗ của Hamayun’s Tomb 😀 một phần cũng vì đang còn dư âm của Ladakh toàn cảnh vật núi sông, giờ đến đây gặp toàn những công trình nhân tạo hoành tráng. Các đoàn du khách nước ngoài, đặc biệt là Nhật Bản thì vẫn kéo vào Hamayun ùn ùn, dịp này cũng trùng với Tuần lễ vàng Golden Week (tuần đầu tháng 5 hàng năm) nên chả trách các bạn ý đi chơi khắp thế giới 😀

… Nhẩm tính đã đến lúc nên quay về sân bay, chúng tôi lại hì hục kéo hành lý ra ga, bụng bảo dạ lần sau xin chừa không dám lê la New Delhi khi chưa cất đồ và có kế hoạch cụ thể trong tay. Nhà ga Delhi quả là cực hình cho những ai phải mang vác nhiều, dòng người xuôi ngược đội valy trên đầu đi lại bất kể hàng lối, phụ nữ và người già rất nhiều, thời tiết nắng nóng nên gần như ai cũng kiệm vải, nhưng nếu để ý thì dưới chỗ râm lại ít người hơn ngoài chỗ nắng! Rất nhiều chỗ bán dưa chuột tươi chấm muối ớt nhìn thèm nhưng sau khi thấy các bạn ý cầm quả dưa nhúng vào cái thau nhựa rồi dùng tay vuốt vuốt cho sạch thì sợ mất hồn không dám ăn … Chen lấn xô đẩy xin đường mãi cuối cùng chúng tôi chui được vào tàu, tàu mới và chạy rất nhanh, nhưng lại cấm chụp ảnh nên không có tư liệu review cho bạn đọc.

Và phòng chờ quen thuộc của sân bay Indra Gandhi International Airport (IGIA) đã ở trước mắt. Sau mấy lần quá cảnh vào ra ở Delhi từ các chuyến đi lần trước, tôi đã thuộc sân bay này kha khá nên tranh thủ lượn lờ mua sách, sạc điện thoại, và dùng ké wifi miễn phí 😀 Các dịch vụ và mặt hàng trong IGIA đều đắt đỏ, trừ sách báo! bạn đọc có thể tìm thấy gần như đủ loại sách, nhất là các ấn phẩm giới thiệu về du lịch văn hóa hay ẩm thực Ấn Độ, Himalaya, văn minh sông Hằng … với giá rẻ (dưới 20USD cho sách tranh ảnh dày); mua sách ở Ấn Độ đúng là sướng khoái như Việt Nam bởi sách nhiều và rẻ, thảo nào nhiều sách mua xong lật trang cuối ra thấy có in “Sale in India only” ^^

Tạm biệt Ladakh, tạm biệt những ngọn núi, dòng sông trong lòng thung lũng Indus – Zanskar – Nurba, chúng tôi về Việt Nam mang theo nhiều kỷ niệm về 1 mảnh đất đẹp hùng vĩ và những con người thân thiện hiếu khách. Đã từ lâu du khách đến đây quên dần hình ảnh Kashmir với những xung đột biên giới Pakistan hay Trung Quốc, bởi vùng này đã trở thành điểm dừng chân cho những tuần trăng mật ấm cúng, những hành trình tâm linh về đất Phật cùng những khám phá độ cao chóng mặt, hay những trải nghiệm đường trường thú vị có một không hai ở Ấn Độ. Với chúng tôi, đó đặc biệt còn là những buổi sớm bình minh yên tĩnh 🙂

Juley, Ladakh!

(Hình ảnh Ladakh trên báo Travel Leisure – South Asia edition, tháng 8 năm 2011)

Kashmir – Nơi bình minh yên tĩnh (P6)

Bận rộn lu bu với nhiều điều khác nên tôi vẫn nợ Ladakh nhiều bài viết, xin trở lại cùng bạn đọc trong bài tiếp theo và cũng là ngày cuối cùng chúng tôi còn lưu lại vùng này, hôm nay chúng tôi dành trọn ngày đi thăm hồ Pangong Tso, vừa là hồ nước mặn rộng nhất bang nằm dưới chân Hy Mã, vừa là biên giới tự nhiên (còn tranh cãi) giữa Ấn Độ và Tây Tạng.

====

Hồ Pangong nằm không quá xa Leh, tuy chỉ có 150km đường chim bay giữa hai nơi nhưng thời gian di chuyển thường mất 5-6 tiếng do điều kiện đường núi gập ghềnh và vẫn còn băng tuyết trên nửa quãng đường. Chúng tôi dậy sớm mang theo áo ấm và rất nhiều nước để chống nhức đầu 😀

Ladakh buổi sáng tĩnh lặng cực kỳ, trong khung cảnh thanh bình đó, chúng tôi gần như là những người duy nhất chạy trên đường:

Không phải đợi quá lâu, chúng tôi đã đến gần đoạn đường gian nan nhất tuyến: vượt qua đỉnh Changla Pass ở độ cao hơn 5300m và đặc biệt vẫn gần như đóng băng trong tháng 5:

Nhờ vào 2 lần qua lại Khardungla Pass khi đi thung lũng Nubra trong mấy ngày trước mà chúng tôi không quá sốc với độ cao trên 5000m của Changla Pass, nhưng cái lạnh ở đây thì kinh người! Không một cơn gió nhưng Changla Pass làm người ta rùng mình vì sự ảm đạm có phần thê lương và cảm giác lạnh từ trong ra ngoài. Do không gần biên giới và một phần vì còn khá sớm nên Changla Pass rất ít người qua lại cũng như hiếm thấy binh lính đồn trú.

Tê cóng người, chúng tôi chui ngay vào xe và tiếp tục hành trình, hy vọng khi xuống thấp sẽ đỡ run cầm cập hơn …

Đường xuống từ đèo Changla khá đẹp, nếu đây là tháng 9-10 khi tuyết đã tan thì hẳn dưới cái nắng trong xanh của Ladakh, con đường này sẽ lý tưởng cho du khách chụp ảnh thưởng ngoạn:

Màu trắng dần dần ít đi và thay thế bằng màu nâu của đất cùng những lạch nước tan từ tuyết chảy hiền hòa, chúng tôi đã qua đoạn đường khắc nghiệt nhất:

Khung cảnh xung quanh lúc nào cực kỳ sống động, cậu lái xe tinh ý chạy chầm chậm giữa những hẻm núi để chúng tôi kịp ngắm thiên nhiên Ladakh ôn hòa ngoài cửa kính:

Nếu thích bạn có thể nhờ xe dừng lại để thoải mái ra ngoài chụp ảnh, đây là đoạn đường đẹp nhất trong hơn 150 cây số giữa Leh và hồ Pangong, thảm động thực vật tuy không phong phú nhưng đặc sắc và hiếm gặp, riêng tôi mới chỉ thấy những hình ảnh này qua máy tính trước khi đến Ladakh.

… Và phía cuối con đường lúc này là dải hồ Pangong giấu mình giữa những dãy núi, chúng tôi chỉ còn cách hồ vài cây số:

Hồ Pangong dài hơn 130 cây số, phía Tây nằm hẳn về địa phận Ấn Độ (chỉ có 40% diện tích hồ), phía Đông kéo dài sang địa phận Trung Quốc, cụ thể thuộc về Tây Tạng. Đã từ lâu du khách bị cấm hoàn toàn việc chạy về phía Đông của hồ vì khu vực này cho đến nay vẫn còn nằm trong tranh chấp, tuy rằng tiếng súng đã ngưng hẳn sau xung đột biên giới Trung-Ấn (Sino-Indian War) năm 1962.

Xe chúng tôi chạy chậm dần và dừng sát mép hồ, đã gần trưa nhưng lúc này mây đang phủ kín trời làm chúng tôi vô phuơng thấy được màu xanh ngọc nổi tiếng của Pangong Tso …

Những hình ảnh đầu tiên của Pangong qua ống kính của tôi:

Cùng với hồ Tsomori, hồ Pangong luôn là điểm đến cho những người yêu thích thiên nhiên rộng lớn và cảnh trời nước mênh mông. Ladakh chưa đông khách và dấu ấn Phật giáo trong vùng cũng chưa sâu đậm như người anh em bên phía kia dãy Hy Mã, nhờ vậy mà Pangong còn khá hoang sơ và không mang tính biểu trưng tôn giáo cao như các hồ thiêng Tây Tạng. Mặt trời chưa ló qua được mây, chúng tôi trong lúc chờ bóng nắng thì xoay ra chụp những góc khác nhau của Pangong Tso.

Đây là phía Tây của hồ:

Vùng giữa hồ, không rõ bên kia có gì …

Chim chóc vừa bay vừa kêu thảng thốt, có vẻ như sự hiện diện ven bờ của chúng tôi quấy quả đến buổi sáng của chúng 😀

Chúng tôi đi bộ một đoạn ven hồ và tranh thủ bắn tỉa loài cư dân gần như độc nhất ở đây:

Được biết hồ Pangong tuy là hồ nước mặn nhưng vào mùa đông là mặt hồ đóng băng cả, cũng là cách mà người địa phương vượt qua bên kia biên giới trong điều kiện cấm chèo thuyền ở đây 😀 Chúng tôi tìm được một stupa đá hiếm hoi ở mép nước nên cũng đua đòi xếp 1 cái khác nhỏ hơn bên cạnh, sau này bạn đọc đi qua có khi vẫn còn thấy y nguyên ở đây chăng?

Đã đến giờ ăn trưa, chúng tôi quyết định ăn nhẹ ngay cạnh hồ và đợi thêm một lúc để mặt trời (có thể) lên. “Nhà hàng” có thể tìm thấy dựng ngay gần hồ:

Và tất nhiên sẽ là món masala tea cay cay ngọt bùi để xoa dịu cái lạnh trong ngày nhiều mây:

Một số gia đình Ấn Độ cũng đang lái xe đến hồ. Hỉnh ảnh này trở nên quen thuộc hơn từ bộ phim “3 Idiots” năm 2010 khi rất nhiều đoạn trong phim lấy bối cảnh thiên nhiên Kashmir, trong đó có vùng hồ Pangong

Chờ đợi mãi đến gần 2h chiều, mây tản đi trong chốc lát và chúng tôi mới kịp thấy những mảng trời xanh hiếm hoi trên cao, màu nước Pangong cũng dịu bớt phần xám xịt

Không thể nán lại quá lâu, mặc dù tiếc nuối vì thời tiết không chiều lòng người, chúng tôi phải rời Pangong Tso để về lại Leh trước khi trời tối. Cảnh hồ cuối cùng khi quay lại chụp trước lúc xe leo đèo:

Trên đường ra thấy khá nhiều xe lúc này mới chạy về hướng Pangong, chắc các nhóm này sẽ cắm trại ngủ lại quanh hồ vì sau giờ chiều là đường về Leh gần như không có người đi để đảm bảo an toàn.

Chúng tôi lại lướt qua những cảnh đẹp hoang sơ vắng bóng người của Ladakh:

… Leh lúc này chỉ còn cách gần 1 giờ chạy xe, đã thấy bóng chiều về trên thủ đô … chúng tôi đã có bữa ăn tối cuối cùng của hành trình Kashmir trong cảm giác ấm cúng sau nửa ngày rét run và đói bụng 😀

Kashmir – Nơi bình minh yên tĩnh (P5)

Nếu trong chúng tôi đã đi về phía Tây Nam thăm Hemis – Thiksey – Shey Monastery trong ngày 2 và đi về phía Bắc để đến với Nubra Valley trong ngày 4 thì ngày 5 là lúc chúng tôi dành thời gian đi dọc theo quốc lộ Leh-Kargil để đến với quần thể các tu viện cổ nhất Ladakh: Lamayuru, Alchi, và Likir. Kargil là điểm dừng chân quen thuộc trên đường bộ nối liền Srinagar đến Leh mà cứ mỗi dịp tuyết tan (từ tháng 6 đến tháng 10) là luôn ngập dấu bánh xe xuôi ngược.

5.1. Tu viện Lamayuru

Ngày thứ 5, thêm một bình minh yên tĩnh nữa chào đón chúng tôi, xe lại bon bon trên đường, chỉ có chúng tôi và nắng gió Kashmir, thi thoảng mới gặp vài nhóm nhỏ người Ladakhi tản bộ bên đường quốc lộ, chắc họ đón những chuyến bus bản địa họa hoằn lắm mới thấy xuất hiện trên tuyến liên tỉnh Leh-Kargil:

Trên đường đi, chúng tôi vượt qua đoạn đèo mà dưới chân là khúc hợp lưu của dòng Indus và dòng Zanskar (Confluence of Indus and Zanskar river), 1 địa điểm mà khách du lịch sẽ luôn bắt gặp trong hành trình tham quan Leh cung cấp bởi các agency Ấn Độ. Bản thân tôi chỉ thấy thú vị trước 2 màu nước bên xám đục bên xanh đậm hòa quyện vào nhau chứ thực tình không thấy chỗ này có gì hoành tráng …

Đường đến Lamauyru dài hơn 170km, chúng tôi gần như lả đi vì nóng trong xe cho đến khi chạy đến làng Basgo thì bác tài mới dừng lại trong ít phút để chúng tôi tranh thủ hít thở khí trời ^^

Làng Basgo tuy nhỏ nhưng được bao bọc bởi núi đá cao nên làng gần như lọt thỏm trong thung lũng khiến nó càng trở nên sinh động hơn khi ngắm nhìn từ trên cao:

Từ đây nhìn lên tu viện Basgo cheo leo rất ấn tượng, cứ như 1 ngọn hải đăng trên cạn mà thời gian đã bóc hết lớp hào nhoáng bên ngoài, để lại 1 tu viện đầy bụi đất sừng sững trên dốc đá cho người đời sau mỗi lần đi qua lại không cầm lòng được mà dừng chân tán thưởng:

Chạy thêm một đoạn nữa chúng tôi gặp 1 khu mới được cải tạo xây dựng, nghe nói đây là resort đầu tiên thuộc loại hiếm có khó tìm vùng này, nơi mà cả nhà nghỉ bình dân nhất cũng phải leo núi vượt đồi mới đến được:

Gần trưa xe đã vào địa phận tu viện Lamayuru. Vùng này chúng tôi đồ rằng thành phần đất đá kiến tạo chứa rất nhiều quặng hay sao mà núi đá rất màu sắc, dưới nắng trưa lại nổi bật màu vàng chanh đẹp mắt

Lên đến Lamauyru, chúng tôi quay lại ngắm quãng đường đèo vừa vượt qua, lại thêm những khúc quanh biến ảo ngoạn mục như tranh nữa:

Vé vào cửa Lamauyru chỉ vỏn vẹn 50 INR (tương đương 1.2 USD, tức là gần 25,000 VND), rẻ đến mức không thể tin được, cho một khung cảnh quá sức phóng khoáng hấp dẫn như ở đây. Sau một hồi tham quan, chúng tôi nhận ra rằng có lẽ điều làm Lamauyru cuốn hút du khách nằm chính ở cảnh sắc xung quanh tu viện hơn là bản thân các khám thờ hay tượng Phật!

Thêm một điểm tôi nhận thấy, hầu hết các tu viện ở Ladakh đều bán vé nhưng chắng có mấy ai soát vé, lại càng hiếm ai trốn vé, dường như mọi người đều coi đó là phần quyên góp nhỏ cho quỹ bảo tồn các thắng cảnh. Còn bác soát vé (hay ít ra người duy nhất chúng tôi gặp ở cổng tu viện) thì đang mải mê phiêu với cái tôi của chính mình 😀

Một vài hình ảnh bên trong tu viện:

Nếu Hemis là tu viện giàu có nhất vùng thì Lamauyru được biết đến như tu viện lâu đời nhất của Ladakh. Tương truyền tu viện được xây dựng bởi đại sư [B]Na Lạc Ba[/B] (Naropa) vào thế kỷ 10, người đã truyền ảnh hưởng của mình cho thế hệ kế cận là [B]Mã Nhĩ Ba[/B] (Marpa Lotsawa), đến lượt đệ tử của Mã Nhĩ Ba là [B]Mật Lặc Nhật Ba[/B] (Milarepa) đã có thành tựu lịch sử sáng lập ra tông Hồng Mạo [B]Ca Nhĩ Cư[/B] (Kagyupa Sect) – 1 trong 4 tông giáo lớn nhất Tây Tạng, vài thế kỷ trước khi Hoàng Mạo Cách Lỗ (Gelugpa Sect) ra đời. Bạn đọc có thể tham khảo thêm lịch sử Phật giáo Tây Tạng đã có dịp đề cập ở đây. Bởi vậy kiến trúc của Lamauyru có phần kém hoành tráng và không phân chia lưỡng tông Hồng-Bạch rực rỡ như các tu viện thuộc dòng “Mũ vàng”

Đối diện với khu khám thờ của tu viện là nơi thiền định của tăng chúng và nằm biệt lập trên 1 khu đồi khác. Được biết ở đây có hang cổ nơi các bậc đại sư xưa đã từng đắc đạo nhập tịch nhưng chúng tôi không tìm thấy chỗ nào mở cửa để vào thăm, chỉ còn cách men theo sườn đồi trèo lên đến đỉnh

Từ ngọn đồi “thiền định” nhìn xung quanh, chúng tôi không kìm được lòng phàm, tuy mệt đứt hơi bởi trời nắng và đồi cao nhưng không ngớt trầm trồ trước cảnh vật quanh Lamauyru đẹp bao la pha nhiều phần hoang dã, núi đá trập trùng dưới biển mây khổng lồ trôi lững lờ. Có lẽ nhiều thế kỷ trước đại sư Na Lạc Ba chọn nơi đây để hoằng trương giáo pháp cũng một phần bởi sức hấp dẫn của tự nhiên như thế này chăng?

5.2. Alchi Monastery

Chúng tôi rời Lamauyru theo xe quay trở lại quốc lộ hướng về phía Leh, rồi lại rẽ nhánh để chạy sang tu viện Alchi (cách Leh khoảng 70km). Đoạn đường này cảm tưởng gần và dễ đi hơn nhiều so với buổi sáng ròng rã, cũng một phần nhờ cảnh vật 2 bên đường xanh dịu mát:

Càng đi đến gần làng Alchi thì phong cảnh càng kỳ thú hơn nữa, có lẽ đây là Đường Lâm của vùng Ladakh chăng?

Chúng tôi dừng xe ở ngoài cổng làng rồi đi bộ vào thăm tu viện Alchi. Thật khó mà nhận biết đâu là cổng của Alchi bởi tu viện này nằm chính giữa làng, qua những ngách đi bộ, chúng tôi vào đến khuôn viên tu viện lúc nào không hay.

Khác với Lamauyru, tu viện Alchi thuộc về dòng Hoàng Mạo Cách Lỗ (Gelugpa Sect), nhưng bản thân kiến trúc Alchi cũng không giống với các tu viện cùng nhánh. Người Ladakhi luôn tự hào coi Alchi là tu viện cổ gần nhu duy nhất còn sót lại ở Ladakh biểu trưng cho kiến trúc Kashmiri của họ. Không quá hoành tráng mà nhỏ nhắn gần gũi với thiên nhiên, điêu khắc trạm chổ mái vòm gỗ và cổng vào mỗi khám thờ của Alchi đậm âm hưởng Ấn Độ – Nepal

Mỗi khám thờ lại nhìn ra khu vườn nhỏ trước mặt làm người ta có cảm tưởng đây là từng ngôi nhà nhỏ chứ không phải khuôn viện 1 tu viện trang nghiêm

Bên ngoài đã vậy, bên trong 3 khám thờ chính của Alchi, người ta còn bất ngờ hơn bởi cách bài trí. Cửa vào rất nhỏ và gần như ngay khi bạn bước vào, bạn sẽ thấy bàn chân của tượng Phật! ngước mắt lên sẽ là toàn thân tượng cực kỳ cao lớn với phục trang và màu sắc rất Ấn; xung quanh 4 phía tường đất là những bức vẽ không quá tinh xảo nhưng đã rất lâu đời. Xung quanh chân tượng là vòng kora chỉ đủ 1 người đi. Không gian bên trong gần như rất nhỏ, khác hoàn toàn các khám thờ hay gặp; đây chính là điểm đặc biệt khiến Alchi để lại ấn tượng mạnh cho chúng tôi. Vì trong các khám thờ đều cấm chụp ảnh nên phải mượn tạm 1 tấm trên mạng sau để minh họa:

Đáng tiếc là nơi lạ nhất lại là nơi chúng tôi chụp được ít ảnh nhất … kỷ niệm về Alchi giờ chi còn trong trí nhớ. Ngoài cổng tu viện bày bán một số sách ảnh chụp lại Alchi qua từng thời kỳ nhưng các cuốn này làm rất vụng nên chúng tôi bỏ qua không mua. Hy vọng sau này có Phượt gia nào trên đường thiên lý ghé lại Alchi sẽ có điều kiện “nháy” tu viện giữa làng này nhiều và sâu hơn nữa ^^

5.3. Likir Monastery

Từ Alchi sang Likir chỉ mất 15′ chạy xe, vượt qua con lộ bằng phẳng dễ đi, chúng tôi đã thấy Likir nổi bật phía chân trời

Xây dựng khoảng thế kỷ 15 và thuộc dòng truyền thừa Cách Lỗ (Gelugpa Sect), Likir quả không hổ danh là tự viện của phía Mũ vàng. Từ rất xa người ta đã có thể ngắm được kiến trúc hoành tráng như pháo đài của nó, thoạt nhìn sẽ có nhiều nét tương đồng với tu viện Thiksey hay Diskit.

Men theo đường đèo thoai thoải, chúng tôi đã đến gần cổng vào tu viện, lúc này đã hơn 3 giờ chiều, mặt trời vẫn còn gay gắt trên cao:

Vé vào cửa Likir chỉ có 20 INR, chưa đến 10,000 VND mà mãi chúng tôi mới tìm được 1 vị sư trẻ để mua vé. Không có ai soát vé, lại càng ít khách du lịch, chúng tôi có cả 1 tu viện để tự do khám phá!

Tuy Likir nhìn bên ngoài rất rộng lớn nhưng thực chất chỉ có 2 khu điện thờ chính và 1 bảo tàng trưng bày hiện vật biệt lập, còn lại là khu sinh sống của tăng chúng nên khách du lịch không được tham quan. Nếu bạn đã từng đặt chân đến Tây Tạng hay Nepal, chắc bạn sẽ quen với hình ảnh những khám thờ thiếu sáng, từng đoàn người hành hương vào ra không ngừng nghỉ, tiếng tụng kinh rì rầm không ngớt, hay những bảng hiệu cấm quay phim chụp ảnh. Còn ở Likir, bạn sẽ thấy điều ngược lại: từng gian điện thờ rộng rãi, vắng vẻ, thoải mái cho khách nhìn ngắm chụp ảnh; chỉ cần bạn bỏ giầy ngoài cửa là có thể ngồi đây hàng giờ nếu muốn:

Phòng trưng bày hiện vật của Likir nằm trên tầng thượng, du khách leo lên đây sẽ xem được các hiện vật trưng bày như thangka, mặt nạ, vũ khí cổ thời Phật giáo còn hưng thịnh dưới vương triều Namgyal, phần lớn trong số đó đã vài trăm năm tuổi. Phía cửa vào chúng tôi thấy 1 cuốn sổ lưu niệm ghi cảm tưởng của du khách, tò mò chúng tôi lật giở từng trang để xem. Sổ này ghi từ đầu năm 2010 đến nay, và chúng tôi tìm thấy một cái tên Việt Nam: “An Phùng” “07/2010” ghi đôi dòng cảm ơn Likir đã giữ gìn và trưng bày các hiện vật cho khách phương xa được tiếp xúc. Hào hứng chúng tôi cũng lén ghi vài chữ để không thua kém người bạn đồng hương 😀

Nhưng tầng thượng Likir không chỉ có phòng trưng bày mà còn có khoảng không gian rộng lớn cao nhất tu viện để bạn ngắm cảnh và chụp ảnh. Trước mắt chúng tôi lại là những gì hoang sơ dữ dội nhất của thiên nhiên Ladakh:

Likir vẫn còn một điểm thu hút du khách nữa, đó là tượng Phật Di Lặc (Maitreya) cao lớn dựng phía sau lưng tu viện. Tượng phật này cũng có nhiều nét tương đồng với tượng Phật khổng lồ ở Diskit trong lòng Nubra Valley nhưng kém rực rỡ hơn. Tượng nhìn xa rất đẹp nhưng nhìn gần có thể nhận ra nhiều phần đang bị xuống cấp bởi thời tiết khắc nghiệt:

Dưới chân tượng là khám thờ với tượng thân bằng đồng của Phật Liên Hoa Sinh (Padmasambhava) và đại sư Tông Khách Ba (Tsongkhapa) cùng 1 mandala ba chiều dựng giữa phòng rất đẹp:

Đi hết vòng tu viện, đã đến lúc chúng tôi trở ra, hình ảnh cuối cùng tôi còn kịp chụp trước khi rời Likir …

… và chúng tôi lại lên đường, nắng đang tắt dần trên 60 km đường về Leh:

Hình ảnh tu viện Spituk nằm gần sát sân bay Leh mà chúng tôi chỉ ngắm trên đường chứ không ghé vào:

Ngày thứ 5 rong ruổi kết thúc bằng buổi tối đi mua quà lưu niệm 🙂 chúng tôi đi bộ hầu hết các quầy hàng ở Main Market và Fort Road là những khu vực tấp nập buôn bán để khảo giá, định bụng mua khăn lụa Cashmere đem về quê dùng đặng những ngày đông tháng giá. Điều dễ nhận thấy là các mặt hàng ở đây rất đa dạng, từ khăn lụa nhỏ đến khăn lụa to; loại 1 lớp, 2 lớp; rồi loại đan tay, đan máy; áo len, chăn ấm, thậm chí cả thảm cực lớn làm từ lụa Cashmere đều có cả; giá thì khỏi chê! vài chục đô Mỹ cho đến vài chục nghìn đô Mỹ đều có đầy đủ. Chúng tôi tất nhiên mù tịt đắt rẻ, chỉ biết rằng các shop này bán thấp hơn so với cùng những tấm lụa đó được xuất đi châu Âu với giá gấp vài lần!

Tuy nghiệp dư nhưng thực sự không khó để phân biệt giữa các loại lụa Pashmina hay Cashmere được bày bán. Cách kiểm tra đơn giản là bạn cầm miếng lụa lên nhẹ bẫng, khoác lên cổ chỉ chưa đầy 1 phút đã thấy ấm, cầm miếng lụa có thể xỏ xuyên qua chiếc nhẫn, gói lại và mở bung ra không bị nhàu nát thì có thể coi là chất lượng tốt. Chắc cũng sẽ có loại hảo hạng nhưng chúng tôi chưa đủ trình độ nhìn ra 😀 Nâng lên đặt xuống, đi tới đi lui mãi chúng tôi cũng chọn được những thứ ưng ý trong tầm tiền để mua về Việt Nam, coi như kỷ niệm lần đầu (và chắc cũng không còn nhiều lần khác) đến quê hương của lụa Cashmere.

Nếu bạn đọc ghé Leh, dạo qua Fort Road thấy quán Wangoo Cottage Emporium (đối diện nhà hàng Dream Land) thì cứ thử bước vào tìm anh chủ quán Farhan xem sao, anh ấy ắt không nhớ chúng tôi là ai và hẳn đã quên Việt Nam nằm cạnh nước nào, nhưng chắc chắn sẽ nhiệt tình giúp bạn chọn hàng và không quên kèm theo lời nhắn “Cứ mua đi và giới thiệu bạn bè mày đến nhé!” ^^

Kashmir – Nơi bình minh yên tĩnh (P4)

Tạm biệt thung lũng Nubra, trở lại Leh

Ngày 4 chúng tôi dậy sớm để tranh thủ ngắm khu làng chúng tôi nghỉ đêm qua, hôm nay lại là 1 ngày nắng ấm nữa trong hành trình Ladakh:

Từ ban công tầng 2, tôi cũng cố ép ra 1 tấm panorama chụp khung cảnh xung quanh nhà:

Khu đất của từng nhà khá rộng, sân vườn gần như tứ phía, bản thân khu nhà ở chỉ cao từ 1 đến 2 tầng, xây với rất nhiều cửa sổ nên ban ngày rất sáng.

Đường làng đơn sơ đáng yêu chạy phía ngoài những hàng rào thấp không cắm kẽm gai hay cài thủy tinh vỡ, Nubra Valley cho người ta cảm giác ấm cúng và an toàn ^^

Còn đây là khu vườn rợp bóng cây với hoa đào vẫn khoe sắc, đã sang tháng 5 mà mùa xuân dường như vẫn còn rất tuơi mới nơi này:

Thêm một vài hình ảnh xuân trong vườn tặng bạn đọc:

Bữa sáng đặc trưng: bánh mỳ với trứng tráng, bơ yak, mứt dâu và trà sữa – cũng là thay lời tạm biệt của gia đình người Ladakhi mến khách.

Juley Nubra Valley! chắc rằng chúng ta sẽ hiếm còn dịp nào tái ngộ … một lần chúng tôi đã tới nơi đây …

Tạm biệt gia đình người Ladakhi, chúng tôi rời làng Hunder, trở ra quốc lộ nhưng chưa vội quay về Leh mà sẽ vượt lòng sông cạn đi thăm tu viện [B]Samstaling[/B] ở làng Sumur. Lại là những dặm đường miên man trong trời xanh nắng cháy; cửa sổ xe mở to và tất nhiên không có điều hòa, chúng tôi chạy trong khung cảnh thiên nhiên Nubra đẹp tuyệt vời:

Những người bạn đồng hành ^^ rất nhiều xe của các đoàn khác cũng ra nhập hành trình trên đường chúng tôi chạy qua làng Sumur. Nhìn các xe nối đuôi nhau chạy trên những đoạn đường quanh co gấp khúc không biển báo, không đèn tín hiệu mới hiểu vì sao ban đêm hay mùa đông tuyết rơi thì đường trong thung lũng Nubra gần như bị phong tỏa

Tuy thế, phong cảnh bên cửa trái xe cực kỳ sinh động, lòng sông cạn hiện ra với dải cát dài và cả thảm thực vật màu xanh quý hiếm:

Chúng tôi thả dốc xuống cây cầu bắc sang địa phận làng Sumur, vì gần với biên giới Pakistan nên chỗ này rất đông lính gác, nhưng thái độ thân thiện và thoải mái với khách du lịch.

Đường làng Sumur rất tốt và bằng phẳng, làng gần như không có bất cứ loại xe cộ nào, người dân chỉ thấy đi bộ chăn dê mà thôi 😀 Nếu đây là các vùng khác của Ấn Độ thì chắc bạn phải nhường đường cho bò, còn ở Sumur bạn phải nhường đường cho dê – loài vật cung cấp lông hảo hạng cho tấm lụa Cashmere (Pashmina) nức danh thế giới. Chúng tôi được biết vùng lông phía dưới cổ của dê là phần lông quý nhẹ ấm quý giá nhất, làm ra sản phẩm mà người bán hàng ở Leh quảng cáo là “king of wool” – giá cũng trên giời luôn 😀 – loại “king of wool” này chỉ có 2 màu tự nhiên là trắng và xám nhạt chứ không có màu sắc nào khác, nếu có pha màu tức là lông đó không phải lấy từ cổ nữa.

Có ai thấy khung cảnh dưới đây thân quen chăng? Chúng tôi thì cùng có cảm nhận rằng nó hệt như khung cảnh ký ức tướng Maximus khi ông trở về quê hương Tây Ban Nha trong đoạn cuối phim Gladiator

Tất nhiên đó chỉ là phía cuối con đường dẫn lên tu viện Samstaling …

Samstaling mới được xây dựng ở Sumur, khuôn viên tu viện không lớn và chỉ có 2 tòa là nơi thờ cúng, còn lại là trường học và khu nhà ở của người Ấn-Tạng. Vì một lý do gì đó mà chúng tôi không phải mua vé vào thăm tu viện, có 1 vị sư già ở cổng cho phép chúng tôi đi thăm và chụp ảnh thoải mái, chỉ cần bỏ giầy ở ngoài khi vào điện thờ là được ^^

Vị sư trẻ đưa chúng tôi qua từng khám thờ, lần lượt giới thiệu ngắn gọn về câu chuyện dòng Hoàng Mạo Cách Lỗ năm xưa vượt dãy Hi Mã sang Ấn Độ đã đâm chồi bắt rễ vùng Nubra này, và Samstaling cũng không là ngoại lệ, được dựng lên nhờ công sức và đóng góp không ngừng nghỉ của người Tạng lưu vong xa xứ:

Những khu nhà khác trong khuôn viên Samstaling, nơi bạn có thể gặp rất nhiều người Tạng đang sinh sống và tu học:

Chúng tôi nấn ná thêm một chút nữa để ngắm nhìn thiên nhiên xung quanh Samstaling, cái đẹp hoang dại rộng lớn của nó càng làm chúng tôi muốn đặt câu hỏi: sức mạnh nào đã giúp những người ở đây không những trụ vững với thiên nhiên khắc nghiệt 2 mùa nóng lạnh mà còn phát triển, xây dựng bản sắc riêng cho mình hàng trăm năm qua …

Tạm biệt Samstaling monastery và làng Sumur, chúng tôi hướng về phía đèo Khardung chạy một mạch, buổi chiều hôm nay chỉ còn chặng đường gian khổ vượt đèo cao ngất ngưởng là sẽ về lại Leh để nghỉ ngơi 😀 Một vài hình ảnh trước lúc xe lên đến khu vực núi tuyết:

Dòng sông Nubra uốn lượn dưới chân chúng tôi:

Ngay trước khi leo dốc, chúng tôi gặp đoạn đường xấu bị sạt lở. Sau nửa tiếng chờ đợi, máy xúc chuyên dụng không biết từ đâu lù lù chạy đến dọn đường để các xe tiếp tục hành trình:

Từ sau đoạn đó là quãng đường giá rét kinh người và choáng váng đầu óc khi xe lên cao dần đến đỉnh đèo Khardung, chúng tôi gần như nằm bẹp dí trong xe, trừ anh tài xế vẫn kiên định tay lái qua những khúc quanh và đường trơn nước tuyết tan.

… Gần 5h chiều chúng tôi đã hoàn toàn ra khỏi địa phận thung lũng Nubra và trở về thung lũng Indus, lòng chảo Leh cùng những hình ảnh quen thuộc đã dần hiện ra trong ống kính ^^

Hoàng hôn đang chạy qua Leh Palace …

Chúng tôi vẫn chưa muốn trở về khách sạn ngay bởi trong lúc chiều tàn tắt nắng, chúng tôi thấy trước mắt là khung cảnh sinh hoạt đẹp bình dị của cư dân Leh, xin gửi đến bạn đọc một vài hình ảnh đó:

Canh tác nông nghiệp trên ruộng cạn với bò yak và phân bón công nghiệp trợ lực 😀

Những hình ảnh này làm tôi lại quên mất mình đang ở Ấn Độ …

Ngày thứ 4 trong hành trình đã kết thúc với ấn tượng không thể quên với cả Nubra Valley và Indus Valley, ngày mai sẽ là những khám phá mới, những ngọn núi dòng sông mới trong sự bao la kỳ thú của thiên nhiên Ladakh ^^

Kashmir – Nơi bình minh yên tĩnh (Phần 3)

1. Vượt Khardungla

Chúng tôi bắt đầu ngày 3 không sớm như tưởng tượng, gần 9h30 sáng xe mới xuất phát đi thung lũng Nubra – thung lũng trù phú nhất toàn vùng Ladakh, nằm cách thủ phủ Leh 150km về phía Bắc. Nhắc đến Nubra Valley là nhắc đến các khu làng Sumur, Diskit, Panamik, Hundle; và cũng là ranh giới xa nhất mà du khách được đi đến. Vượt qua đó là vùng biên giới chiến sự với Pakistan, vì thế trên đường đi Nubra bạn có thể gặp hàng đoàn xe quân sự hạng nặng rầm rập cắn đuôi nhau vượt đèo.

Trước khi lên xe, anh tài xế trẻ dặn chúng tôi nhớ mang theo áo lạnh, mặc dù Leh khi đó đang chói chang nắng sớm. Tạm biệt Leh, chúng tôi mải miết nhắm hướng núi tuyết mà chạy.

Hai tiếng đầu gần như không có gì đặc biệt, chúng tôi men theo sườn đồi, thoắt ẩn thoắt hiện, chuyển từ ngọn này sang ngọn khác, mỗi lúc một lên cao dần. Lúc này qua cửa kính xe, chúng tôi đã nhận ra con đường dần dần chuyển sang màu trắng và nhiệt độ trong xe đang xuống dần đến mức lạnh cóng!

Mặt trời đã lên đứng bóng, nắng xuyên qua kính xe chiếu gay gắt trên tay và trên mặt; bắt chấp như vậy, chúng tôi vẫn run lên trong áo khoác ….

Một màu trắng xóa đến nhức mắt bao trùm xung quanh, tai chúng tôi dần ù tai vì độ cao. Anh tài xế lái xe chầm chậm lại, báo hiệu đã đến đỉnh Khardungla — đỉnh đèo cao nhất trên đường bộ nối liến Leh và thung lũng Nubra

Đúng 12h trưa xe dừng, chúng tôi đã lên đến Khardungla, khung cảnh xung quanh vắng lạnh, mọi thứ dường như đóng băng

Nằm ở độ cao ấn tượng (trên 5300m so với mực nước biển — cao gấp 1.7 lần nóc nhà Đông Dương), Khardungla quả là làm người ta mệt mỏi bởi không khí loãng và tiết trời lạnh khô! Các bạn Ấn Độ thì rất tự hào coi Khardungla Pass là đường bộ cao nhất thế giới tuy rằng thông tin này không chính xác 😀 mặc dù vậy, thông tin ‘quán cà phê cao nhất thế giới’ thì có thể tin là thật, bởi chúng tôi chưa từng nghe qua có quán cafe nào khác nằm cao tương tự như vậy ^^

Thường trú trên Khardungla Pass là nhóm nhỏ quân đội Ấn Độ thái độ thân thiện và cho du khách thoải mái chụp ảnh:

Chúng tôi cũng không trụ được quá lâu với thời tiết khắc nghiệt ở đây, uống vội cốc cà phê, chúng tôi theo xe đổ đèo, đi nốt quãng đường dẫn vào thung lũng Nubra.

Nubra Valley chào đón chúng tôi thân thiện hơn nhiều so với đèo Khardung, càng đi màu xanh càng dày lên trong mắt.

Điểm đến trong chiều nay của chúng tôi ở thung lũng Nubra là Diskit Monastery, vẫn còn hơn 15km đường phía trước …

2.1. Tu viện Deskit

Deskit Monastery (hay còn có tên gọi Diskit Monastery) là tu viện Phật giáo lâu đời nhất trong lòng thung lũng Nubra, được xây dựng vào thế kỷ thứ 14 bởi đệ tử của đại sư Tông Khách Ba (Tsongkhapa) nên Deskit thuộc vào dòng Hoàng Mạo Giáo Gelugpa Sect.

Vượt qua con đường bụi bặm đang được sửa chữa (hay vẫn trong tình trạng sửa chữa từ bao lâu nay), chúng tôi dần tiếp cận quần thể tu viện. Deskit được chia làm 2 khu lớn: phần tu viện và các khám thờ nằm bên dốc đá cheo leo của quả đồi bên phải, phần tư gia của Lạt Ma đứng đầu Deskit nằm ở chân đồi thấp bên trái (trên nóc có tượng thờ Phật Di Lặc khổng lồ!)

Đường vào Deskit:

Vé vào cửa tu viện Deskit cực kỳ rẻ, chỉ vỏn vẹn 20 INR, tương đương với gần 50cent tức 10,000 VND nhưng lại có rất nhiều thứ để xem cho thỏa thích ^^ Chúng tôi bước vào tu viện lúc 2.30 chiều, lúc này mặt trời vẫn chói chang và tu viện rất vắng khách tham quan

Các khám thờ của Diskit đều nhỏ và không được bảo quản tốt cho lắm, vì không có tài liệu hướng dẫn nên chúng tôi gần như không nhớ được cấu trúc của Diskit ra sao, một số khám thờ đóng cửa và chỉ mở nếu du khách yêu cầu. Ngoài các gian điện thờ Phật, Diskit còn có khám thờ riêng chứa vô số các tượng Minh Vương Hộ Pháp, nét vẽ mạnh mẽ và dữ tợn (đặc trưng thường thấy nếu bạn có dịp nhìn những tượng thờ Hindu của Ấn Độ hay Nepal); chắc cũng bởi thế mà những tượng này đều được che kín lại và chỉ được khai quang trưng bày trong những dịp lễ hội.

Một số hình ảnh các khám thờ chúng tôi đi thăm trong Diskit:

Nhưng có lẽ điều mà Diskit tự hào nhất chính là địa lợi và nhân hòa! Vị trí thiên phú của tu viện sừng sững trên đỉnh đồi nhìn ra thung lũng Nubra và sông Skyok, xa xăm cuối chân trời chính là biên giới Ấn Độ – Paskitan. Từ điểm cao này phóng tầm mắt ra xa, người ta chỉ thấy núi núi mây mây và những con đường cát trải dài bất tận. Chúng tôi hì hục leo lên chốt cao nhất của Diskit thể thỏa sức ngoạn cảnh. Nubra đẹp kỳ ảo trong nắng chiều! Chỉ 1-2 tháng nữa là Ladakh sẽ sang mùa hè, chắc những mảng màu xanh dưới chân đồi sẽ còn dày đẹp lên rất nhiều 🙂

Những vị sư già mà chúng tôi gặp ở Diskit rất dễ thương, ai cũng nói tốt tiếng Anh và thân thiện hơn so với chúng tôi mong đợi ^^ Các vị này trước đây đều đã từng tu học tại tu viện Tashilhunpo vùng Tsang của Tây Tạng, cách ăn mặc của họ cũng giản dị hơn so với đồng môn Hoàng Mạo Cách Lỗ phía bên kia biên giới.

Chúng tôi cũng bị thu hút bởi kiến trúc dưới chân đồi bên trái của tu viện Diskit, nổi bật trên nền trời là biểu tượng của Từ Bi và Trí Huệ – tượng thân Phật Tương Lai Phật Di Lặc (Maitreya Buddha) – trong tư thế ngồi và tay chuyển pháp. Đường lên đồi sẽ chạy phía sau lưng tượng rồi du khách sẽ đi bộ từ bãi đậu xe ra phía trước, làm vòng đảnh lễ xung quanh chân tượng.

Tượng Maitreya này có thể nói là cực lớn, cao 32m, màu sắc bắt mắt và còn rất mới. Được biết tượng được dựng từ năm 2006 và hoàn thành vào năm 2010, giờ đây đã trở thành biểu tượng thường gặp khi giới thiệu về Diskit monastery. Kiến trúc của tượng mang phong cách Phật giáo nguyên thủy với khuôn mặt Di Lặc trẻ trung sống động, trang phục cách điệu Ấn Độ ngồi trên chân đế lớn trang trí như những chân đế stupa nhìn thấy trong Potala với biểu tượng sư tử trắng bờm xanh và xung quanh chạm trổ vô số ngọc bích đá quý. Người hành hương về đây cũng đã buộc rất nhiều lụa trắng quanh chân tượng.

Đứng từ chân tượng nhìn ra trung tâm thung lũng:

Vị trí này cũng khá lý tưởng để ngắm kỹ hơn kiến trúc của Diskit Monastery xây theo triền dốc cũng như các stupa xây dựng quanh đồi giờ gần như đã bỏ hoang. Một số hình ảnh chúng tôi chụp lại khi đứng đây:

Du ngoạn Diskit đến hơn 4h chiều cũng là lúc chúng tôi nói lời từ biệt nơi đây để đến điểm dừng tiếp theo: những đồi cát làng Hunder và chuẩn bị cưỡi lạc đà 2 bướu – đặc sản lưu lạc đến Ấn Độ nhiều thế kỷ về trước

2.2. Hunder Village

Nằm không xa Diskit Village là Hunder Village, cũng là điểm dừng chân quen thuộc của du khách khi thăm thú thung lũng Nubra. Trong những thế kỷ trước, làng Hunder còn nhộn nhịp sầm uất hơn nhiều bởi nó là ốc đảo xanh trên con đường tơ lụa đoạn nối liền Tây Tạng qua Ấn Độ.

Con đường chạy qua làng len lỏi giữa những cồn cát cao ngập đầu người:

Trước khi vào làng nghỉ ngơi, chúng tôi được bác tài đưa qua khu đồi cát cưỡi lạc đà để làm quen với những “cư dân” sa mạc này. Bãi cưỡi lạc đà khá rộng và sạch đẹp, tuy nằm giữa các đồi cát nhưng mơn mởn màu xanh, có cả 1 dòng suối nhỏ để khách du lịch vùng vẫy.

Được biết lạc đà ở vùng này là loại lạc đà 2 bướu (Bactrian Camel) đặc biệt bắt nguồn từ các vùng Trung Á, mà ngày nay chỉ phổ biến ở Tân Cương, Mông Cổ. Đây chắc chắn là con cháu của những đoàn lạc đà lớn xa xưa đã đi trọn con đường Á-Âu huyền thoại một thời và nay được giữ lại để nuôi dạy và thuần hóa trong lòng thung lũng Nubra. Dịp chúng tôi đến chắc là nhằm lúc các bạn lạc đà này đang rụng lông nên nhìn có phần xơ xác chứ nhìn ảnh giới thiệu trên mạng thì cũng mượt mà bắt mắt chả kém ai 😀

Trong bãi cưỡi có khoảng 20 con lớn bé cho du khách cưỡi, giờ phục vụ từ 9-12h sáng hoặc 3-6h chiều, mỗi suất trung bình 15-20′, còn nếu bạn chịu được nắng thì cứ thỏa sức mà đi

Chúng tôi cũng bon chen đợi đến lượt để cưỡi lạc đà cho bằng anh bằng em, đây là 2 chú lạc đà non đang chờ lúc đi dạo:

Không biết xưa kia các bác thương nhân có bí quyết gì để cưỡi trên lưng lạc đà hàng tháng trời chứ chúng tôi thì đã sợ đến già Cảm giác cưỡi lạc đà khá cao và chòng chành, ngồi lâu rất tê chân mỏi gối, chưa kể trời nắng như đổ lửa mà lạc đà cứ nhởn nha từng bước trên cát. Có lẽ những hình ảnh quân đội Saladin ngạo nghễ trên lưng lạc đà vung kiếm đẩy lui quân Thập tự chinh chỉ còn thấy được qua phim ảnh và sử sách …

Sau nửa tiếng đi phơi, chúng tôi cũng về lại bãi đáp, đây cũng là lượt cưỡi cuối cùng vì đồng hồ đã chỉ qua 6h tuy trời còn rất sáng. Bác tài đưa chúng tôi vào làng Hunder và tìm 1 gia đình người Ladakhi cho thuê trọ để chúng tôi qua đêm nay trong thung lũng Nubra.

Nghỉ ngơi tắm rửa xong xuôi thì trời sập tối rất nhanh, chúng tôi cũng không kịp dạo quanh nhà nên sẽ hẹn bạn đọc sang ngày hôm sau để có hình ảnh đầy đủ hơn về ngôi làng. Lúc này đường làng đã tối om om, Hunder chìm trong không gian tĩnh mịch, đây đó chỉ leo lét ánh sáng của những ngôi nhà cao hơn 1 tầng. Nubra Valley về đêm chỉ còn không khí se lạnh và sự yên ắng lạ thường; càng làm không khí bên trong ngôi nhà trọ thêm ấm cúng:

Chúng tôi vào phòng ăn cùng với gia đình người Ladakhi và 2 người bạn Nhật Bản cũng mới đến trọ. Bữa ăn tối đơn giản nhưng được coi là thịnh soạn ở nơi mà thịt cá có lẽ khá hiếm hoi nhất là khi mùa băng tuyết vừa qua, chúng tôi ăn gần như không nghỉ thức ăn nấu nhạt và rất ngon miệng, chưa kể món trà Masala Tea thơm cay hảo hạng.

Được biết làng Hunder mỗi năm chỉ đón khách tham quan mấy tháng, từ khoảng tháng 6 đến tháng 10, còn lại gần như tách biệt với thế giới bên ngoài bởi tuyết sẽ phủ kín con đường bộ từ Indus Valley sang Nubra Valley. Do đó người dân Ladakhi ở đây tự lực cánh sinh là chủ yếu, đời sống giản tiện và rất gọn gàng, xăng xe tivi điện thoại máy tính đều rất hiếm. Cũng nhờ nằm ở vĩ độ thấp hơn Leh, điều kiện tự nhiên ở Nubra Valley rất tốt cho việc trồng cấy và chăn thả. Nếu bạn có dịp qua đây chắc sẽ không lấy làm ngạc nhiên nếu thấy những bày dê chăn thả tự do quanh làng, đây đó là nhiều dòng suối chảy từ trong núi ra quanh co mát sạch 🙂