Nếu trong chúng tôi đã đi về phía Tây Nam thăm Hemis – Thiksey – Shey Monastery trong ngày 2 và đi về phía Bắc để đến với Nubra Valley trong ngày 4 thì ngày 5 là lúc chúng tôi dành thời gian đi dọc theo quốc lộ Leh-Kargil để đến với quần thể các tu viện cổ nhất Ladakh: Lamayuru, Alchi, và Likir. Kargil là điểm dừng chân quen thuộc trên đường bộ nối liền Srinagar đến Leh mà cứ mỗi dịp tuyết tan (từ tháng 6 đến tháng 10) là luôn ngập dấu bánh xe xuôi ngược.
5.1. Tu viện Lamayuru
Ngày thứ 5, thêm một bình minh yên tĩnh nữa chào đón chúng tôi, xe lại bon bon trên đường, chỉ có chúng tôi và nắng gió Kashmir, thi thoảng mới gặp vài nhóm nhỏ người Ladakhi tản bộ bên đường quốc lộ, chắc họ đón những chuyến bus bản địa họa hoằn lắm mới thấy xuất hiện trên tuyến liên tỉnh Leh-Kargil:
Trên đường đi, chúng tôi vượt qua đoạn đèo mà dưới chân là khúc hợp lưu của dòng Indus và dòng Zanskar (Confluence of Indus and Zanskar river), 1 địa điểm mà khách du lịch sẽ luôn bắt gặp trong hành trình tham quan Leh cung cấp bởi các agency Ấn Độ. Bản thân tôi chỉ thấy thú vị trước 2 màu nước bên xám đục bên xanh đậm hòa quyện vào nhau chứ thực tình không thấy chỗ này có gì hoành tráng …
Đường đến Lamauyru dài hơn 170km, chúng tôi gần như lả đi vì nóng trong xe cho đến khi chạy đến làng Basgo thì bác tài mới dừng lại trong ít phút để chúng tôi tranh thủ hít thở khí trời ^^
Làng Basgo tuy nhỏ nhưng được bao bọc bởi núi đá cao nên làng gần như lọt thỏm trong thung lũng khiến nó càng trở nên sinh động hơn khi ngắm nhìn từ trên cao:
Từ đây nhìn lên tu viện Basgo cheo leo rất ấn tượng, cứ như 1 ngọn hải đăng trên cạn mà thời gian đã bóc hết lớp hào nhoáng bên ngoài, để lại 1 tu viện đầy bụi đất sừng sững trên dốc đá cho người đời sau mỗi lần đi qua lại không cầm lòng được mà dừng chân tán thưởng:
Chạy thêm một đoạn nữa chúng tôi gặp 1 khu mới được cải tạo xây dựng, nghe nói đây là resort đầu tiên thuộc loại hiếm có khó tìm vùng này, nơi mà cả nhà nghỉ bình dân nhất cũng phải leo núi vượt đồi mới đến được:
Gần trưa xe đã vào địa phận tu viện Lamayuru. Vùng này chúng tôi đồ rằng thành phần đất đá kiến tạo chứa rất nhiều quặng hay sao mà núi đá rất màu sắc, dưới nắng trưa lại nổi bật màu vàng chanh đẹp mắt
Lên đến Lamauyru, chúng tôi quay lại ngắm quãng đường đèo vừa vượt qua, lại thêm những khúc quanh biến ảo ngoạn mục như tranh nữa:
Vé vào cửa Lamauyru chỉ vỏn vẹn 50 INR (tương đương 1.2 USD, tức là gần 25,000 VND), rẻ đến mức không thể tin được, cho một khung cảnh quá sức phóng khoáng hấp dẫn như ở đây. Sau một hồi tham quan, chúng tôi nhận ra rằng có lẽ điều làm Lamauyru cuốn hút du khách nằm chính ở cảnh sắc xung quanh tu viện hơn là bản thân các khám thờ hay tượng Phật!
Thêm một điểm tôi nhận thấy, hầu hết các tu viện ở Ladakh đều bán vé nhưng chắng có mấy ai soát vé, lại càng hiếm ai trốn vé, dường như mọi người đều coi đó là phần quyên góp nhỏ cho quỹ bảo tồn các thắng cảnh. Còn bác soát vé (hay ít ra người duy nhất chúng tôi gặp ở cổng tu viện) thì đang mải mê phiêu với cái tôi của chính mình 😀
Một vài hình ảnh bên trong tu viện:
Nếu Hemis là tu viện giàu có nhất vùng thì Lamauyru được biết đến như tu viện lâu đời nhất của Ladakh. Tương truyền tu viện được xây dựng bởi đại sư [B]Na Lạc Ba[/B] (Naropa) vào thế kỷ 10, người đã truyền ảnh hưởng của mình cho thế hệ kế cận là [B]Mã Nhĩ Ba[/B] (Marpa Lotsawa), đến lượt đệ tử của Mã Nhĩ Ba là [B]Mật Lặc Nhật Ba[/B] (Milarepa) đã có thành tựu lịch sử sáng lập ra tông Hồng Mạo [B]Ca Nhĩ Cư[/B] (Kagyupa Sect) – 1 trong 4 tông giáo lớn nhất Tây Tạng, vài thế kỷ trước khi Hoàng Mạo Cách Lỗ (Gelugpa Sect) ra đời. Bạn đọc có thể tham khảo thêm lịch sử Phật giáo Tây Tạng đã có dịp đề cập ở đây. Bởi vậy kiến trúc của Lamauyru có phần kém hoành tráng và không phân chia lưỡng tông Hồng-Bạch rực rỡ như các tu viện thuộc dòng “Mũ vàng”
Đối diện với khu khám thờ của tu viện là nơi thiền định của tăng chúng và nằm biệt lập trên 1 khu đồi khác. Được biết ở đây có hang cổ nơi các bậc đại sư xưa đã từng đắc đạo nhập tịch nhưng chúng tôi không tìm thấy chỗ nào mở cửa để vào thăm, chỉ còn cách men theo sườn đồi trèo lên đến đỉnh
Từ ngọn đồi “thiền định” nhìn xung quanh, chúng tôi không kìm được lòng phàm, tuy mệt đứt hơi bởi trời nắng và đồi cao nhưng không ngớt trầm trồ trước cảnh vật quanh Lamauyru đẹp bao la pha nhiều phần hoang dã, núi đá trập trùng dưới biển mây khổng lồ trôi lững lờ. Có lẽ nhiều thế kỷ trước đại sư Na Lạc Ba chọn nơi đây để hoằng trương giáo pháp cũng một phần bởi sức hấp dẫn của tự nhiên như thế này chăng?
5.2. Alchi Monastery
Chúng tôi rời Lamauyru theo xe quay trở lại quốc lộ hướng về phía Leh, rồi lại rẽ nhánh để chạy sang tu viện Alchi (cách Leh khoảng 70km). Đoạn đường này cảm tưởng gần và dễ đi hơn nhiều so với buổi sáng ròng rã, cũng một phần nhờ cảnh vật 2 bên đường xanh dịu mát:
Càng đi đến gần làng Alchi thì phong cảnh càng kỳ thú hơn nữa, có lẽ đây là Đường Lâm của vùng Ladakh chăng?
Chúng tôi dừng xe ở ngoài cổng làng rồi đi bộ vào thăm tu viện Alchi. Thật khó mà nhận biết đâu là cổng của Alchi bởi tu viện này nằm chính giữa làng, qua những ngách đi bộ, chúng tôi vào đến khuôn viên tu viện lúc nào không hay.
Khác với Lamauyru, tu viện Alchi thuộc về dòng Hoàng Mạo Cách Lỗ (Gelugpa Sect), nhưng bản thân kiến trúc Alchi cũng không giống với các tu viện cùng nhánh. Người Ladakhi luôn tự hào coi Alchi là tu viện cổ gần nhu duy nhất còn sót lại ở Ladakh biểu trưng cho kiến trúc Kashmiri của họ. Không quá hoành tráng mà nhỏ nhắn gần gũi với thiên nhiên, điêu khắc trạm chổ mái vòm gỗ và cổng vào mỗi khám thờ của Alchi đậm âm hưởng Ấn Độ – Nepal
Mỗi khám thờ lại nhìn ra khu vườn nhỏ trước mặt làm người ta có cảm tưởng đây là từng ngôi nhà nhỏ chứ không phải khuôn viện 1 tu viện trang nghiêm
Bên ngoài đã vậy, bên trong 3 khám thờ chính của Alchi, người ta còn bất ngờ hơn bởi cách bài trí. Cửa vào rất nhỏ và gần như ngay khi bạn bước vào, bạn sẽ thấy bàn chân của tượng Phật! ngước mắt lên sẽ là toàn thân tượng cực kỳ cao lớn với phục trang và màu sắc rất Ấn; xung quanh 4 phía tường đất là những bức vẽ không quá tinh xảo nhưng đã rất lâu đời. Xung quanh chân tượng là vòng kora chỉ đủ 1 người đi. Không gian bên trong gần như rất nhỏ, khác hoàn toàn các khám thờ hay gặp; đây chính là điểm đặc biệt khiến Alchi để lại ấn tượng mạnh cho chúng tôi. Vì trong các khám thờ đều cấm chụp ảnh nên phải mượn tạm 1 tấm trên mạng sau để minh họa:
Đáng tiếc là nơi lạ nhất lại là nơi chúng tôi chụp được ít ảnh nhất … kỷ niệm về Alchi giờ chi còn trong trí nhớ. Ngoài cổng tu viện bày bán một số sách ảnh chụp lại Alchi qua từng thời kỳ nhưng các cuốn này làm rất vụng nên chúng tôi bỏ qua không mua. Hy vọng sau này có Phượt gia nào trên đường thiên lý ghé lại Alchi sẽ có điều kiện “nháy” tu viện giữa làng này nhiều và sâu hơn nữa ^^
5.3. Likir Monastery
Từ Alchi sang Likir chỉ mất 15′ chạy xe, vượt qua con lộ bằng phẳng dễ đi, chúng tôi đã thấy Likir nổi bật phía chân trời
Xây dựng khoảng thế kỷ 15 và thuộc dòng truyền thừa Cách Lỗ (Gelugpa Sect), Likir quả không hổ danh là tự viện của phía Mũ vàng. Từ rất xa người ta đã có thể ngắm được kiến trúc hoành tráng như pháo đài của nó, thoạt nhìn sẽ có nhiều nét tương đồng với tu viện Thiksey hay Diskit.
Men theo đường đèo thoai thoải, chúng tôi đã đến gần cổng vào tu viện, lúc này đã hơn 3 giờ chiều, mặt trời vẫn còn gay gắt trên cao:
Vé vào cửa Likir chỉ có 20 INR, chưa đến 10,000 VND mà mãi chúng tôi mới tìm được 1 vị sư trẻ để mua vé. Không có ai soát vé, lại càng ít khách du lịch, chúng tôi có cả 1 tu viện để tự do khám phá!
Tuy Likir nhìn bên ngoài rất rộng lớn nhưng thực chất chỉ có 2 khu điện thờ chính và 1 bảo tàng trưng bày hiện vật biệt lập, còn lại là khu sinh sống của tăng chúng nên khách du lịch không được tham quan. Nếu bạn đã từng đặt chân đến Tây Tạng hay Nepal, chắc bạn sẽ quen với hình ảnh những khám thờ thiếu sáng, từng đoàn người hành hương vào ra không ngừng nghỉ, tiếng tụng kinh rì rầm không ngớt, hay những bảng hiệu cấm quay phim chụp ảnh. Còn ở Likir, bạn sẽ thấy điều ngược lại: từng gian điện thờ rộng rãi, vắng vẻ, thoải mái cho khách nhìn ngắm chụp ảnh; chỉ cần bạn bỏ giầy ngoài cửa là có thể ngồi đây hàng giờ nếu muốn:
Phòng trưng bày hiện vật của Likir nằm trên tầng thượng, du khách leo lên đây sẽ xem được các hiện vật trưng bày như thangka, mặt nạ, vũ khí cổ thời Phật giáo còn hưng thịnh dưới vương triều Namgyal, phần lớn trong số đó đã vài trăm năm tuổi. Phía cửa vào chúng tôi thấy 1 cuốn sổ lưu niệm ghi cảm tưởng của du khách, tò mò chúng tôi lật giở từng trang để xem. Sổ này ghi từ đầu năm 2010 đến nay, và chúng tôi tìm thấy một cái tên Việt Nam: “An Phùng” “07/2010” ghi đôi dòng cảm ơn Likir đã giữ gìn và trưng bày các hiện vật cho khách phương xa được tiếp xúc. Hào hứng chúng tôi cũng lén ghi vài chữ để không thua kém người bạn đồng hương 😀
Nhưng tầng thượng Likir không chỉ có phòng trưng bày mà còn có khoảng không gian rộng lớn cao nhất tu viện để bạn ngắm cảnh và chụp ảnh. Trước mắt chúng tôi lại là những gì hoang sơ dữ dội nhất của thiên nhiên Ladakh:
Likir vẫn còn một điểm thu hút du khách nữa, đó là tượng Phật Di Lặc (Maitreya) cao lớn dựng phía sau lưng tu viện. Tượng phật này cũng có nhiều nét tương đồng với tượng Phật khổng lồ ở Diskit trong lòng Nubra Valley nhưng kém rực rỡ hơn. Tượng nhìn xa rất đẹp nhưng nhìn gần có thể nhận ra nhiều phần đang bị xuống cấp bởi thời tiết khắc nghiệt:
Dưới chân tượng là khám thờ với tượng thân bằng đồng của Phật Liên Hoa Sinh (Padmasambhava) và đại sư Tông Khách Ba (Tsongkhapa) cùng 1 mandala ba chiều dựng giữa phòng rất đẹp:
Đi hết vòng tu viện, đã đến lúc chúng tôi trở ra, hình ảnh cuối cùng tôi còn kịp chụp trước khi rời Likir …
… và chúng tôi lại lên đường, nắng đang tắt dần trên 60 km đường về Leh:
Hình ảnh tu viện Spituk nằm gần sát sân bay Leh mà chúng tôi chỉ ngắm trên đường chứ không ghé vào:
Ngày thứ 5 rong ruổi kết thúc bằng buổi tối đi mua quà lưu niệm 🙂 chúng tôi đi bộ hầu hết các quầy hàng ở Main Market và Fort Road là những khu vực tấp nập buôn bán để khảo giá, định bụng mua khăn lụa Cashmere đem về quê dùng đặng những ngày đông tháng giá. Điều dễ nhận thấy là các mặt hàng ở đây rất đa dạng, từ khăn lụa nhỏ đến khăn lụa to; loại 1 lớp, 2 lớp; rồi loại đan tay, đan máy; áo len, chăn ấm, thậm chí cả thảm cực lớn làm từ lụa Cashmere đều có cả; giá thì khỏi chê! vài chục đô Mỹ cho đến vài chục nghìn đô Mỹ đều có đầy đủ. Chúng tôi tất nhiên mù tịt đắt rẻ, chỉ biết rằng các shop này bán thấp hơn so với cùng những tấm lụa đó được xuất đi châu Âu với giá gấp vài lần!
Tuy nghiệp dư nhưng thực sự không khó để phân biệt giữa các loại lụa Pashmina hay Cashmere được bày bán. Cách kiểm tra đơn giản là bạn cầm miếng lụa lên nhẹ bẫng, khoác lên cổ chỉ chưa đầy 1 phút đã thấy ấm, cầm miếng lụa có thể xỏ xuyên qua chiếc nhẫn, gói lại và mở bung ra không bị nhàu nát thì có thể coi là chất lượng tốt. Chắc cũng sẽ có loại hảo hạng nhưng chúng tôi chưa đủ trình độ nhìn ra 😀 Nâng lên đặt xuống, đi tới đi lui mãi chúng tôi cũng chọn được những thứ ưng ý trong tầm tiền để mua về Việt Nam, coi như kỷ niệm lần đầu (và chắc cũng không còn nhiều lần khác) đến quê hương của lụa Cashmere.
Nếu bạn đọc ghé Leh, dạo qua Fort Road thấy quán Wangoo Cottage Emporium (đối diện nhà hàng Dream Land) thì cứ thử bước vào tìm anh chủ quán Farhan xem sao, anh ấy ắt không nhớ chúng tôi là ai và hẳn đã quên Việt Nam nằm cạnh nước nào, nhưng chắc chắn sẽ nhiệt tình giúp bạn chọn hàng và không quên kèm theo lời nhắn “Cứ mua đi và giới thiệu bạn bè mày đến nhé!” ^^