Tây Tạng Du Ký – Khúc vĩ thanh

Quả thật khó cho tôi khi muốn viết lại Khúc vĩ thanh Tây Tạng, bao nhiêu hình ảnh chuyến hành trình 11 ngày cứ đầy ăm ắp, ấn tượng với Tây Tạng vô cùng sâu đậm, những thắc mắc năm xưa nay đã tìm được lời giải đáp trên vùng đất Phật nhưng kéo theo đó là muôn vàn điều mới mẻ và lòng càng băn khoăn hơn … Xin trích đôi dòng từ cuốn Mùi hương trầm (tác giả Nguyễn Tường Bách): “Cảnh quan thiên nhiên tuyệt đỉnh của Tây Tạng không chỉ làm hứng khởi tầm nghe nhìn của chúng ta vốn thường bị mây mù, khói đục và tiếng ồn che phủ, mà còn tích cực hơn, nó dẫn đường mở lối cho nhận thức và ý niệm về cái miên viễn đang hiện hình trước mắt ta. Tâm ta biết rằng cái miên viễn không phải đi tìm đâu xa, nó nằm ngay trước mắt, nó hiện diện ngay trong lòng, chỉ mắt vướng bụi nên không nhìn thấy nó, chỉ lòng chưa tỉnh nên không nhận ra nó. Nhưng cái miên viễn cũng không phải trần trụi sờ sờ ra đó để ai cũng có thể ngắm nghía mà muốn tới với nó phải đi hết đoạn đường phi hữu phi không, phải tự tay mở cánh cửa vô môn, phải nghe được thứ tiếng không lời, phải vào chốn ẩn mật chỉ dành cho những người dâng hết tâm ý, biết buông rơi chính mình. Cảnh quan Tây Tạng là bước khởi đầu, không phải là đoạn kết thúc.” Phải rồi! chỉ là bước khởi đầu, chưa phải là đoạn kết thúc, tôi đang viết cho bước khởi đầu của chính mình 🙂

1. Đô Thành mù sương

Tôi có duyên nhiều với Thành Đô (Chengdu) và cũng rất yêu thích thành phố này bởi nó có cái trong mát yên bình của đô thị quanh năm bao phủ bởi sương mù, kèm theo bề dày lịch sử văn hoá của cố đô Thục Hán đến nay đã vài mươi thế kỷ, cũng lại mang dáng dấp tân kỳ đô hội phát triển không thua kém bất cứ nơi đâu. Cũng vì thế tôi chọn Thành Đô, Tứ Xuyên làm điểm xuất phát của cuộc hành trình. Tuy chỉ lưu lại Thành Đô 1 ngày nhưng tôi đã may mắn cảm nhận được phần nào cuộc sống nơi Thiên Phủ Chi Quốc với những ghế kiệu, phòng trà, bạch viên, thi quyển:

Những vẻ đẹp làm mê lòng khách đến Thành Đô: này là Vọng Giang Lầu êm đềm trong sương sớm, này là Văn Thù Miếu giấu trong lòng nó những gì tinh hoa của vùng Tứ Xuyên. Bước chân vào Đệ nhất danh trà quán, người ta thấy một nốt trầm trong đời sống phồn hoa của nơi đây, không líu lo điện thoại, không tíu tít bán hàng, người dân Thành Đô vào đây độc ẩm, đối ẩm, quần ẩm bên những ly trà luôn bóc khói nóng; đáng yêu và thú vị như tiết trời sương khói mát mẻ bao đời của mảnh đất này vậy. Không chỉ có thế, Văn Thù Miếu còn có riêng 1 thư viện Phật học cực lớn bên trong khuôn viên bởi với những ai nghiên cứu Phật giáo thì đều biết rằng hình tượng Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát là tượng trưng cho trí huệ mênh mông, điều mà sau này tôi được chứng ngộ khi đặt chân vào Tây Tạng.

Thành Đô tiễn tôi bằng 1 cơn mưa nhẹ và màn Xuyên kịch đặc sản khi trời chiều lảng bảng. Phố đẹp, đường đẹp, lầu gác đẹp và người cũng đẹp; Thành Đô trong mưa là 1 ấn tượng khó phai với khách phương xa. Ngồi trong rạp dựng ngoài trời ngay dưới cơn mưa xem hý kịch Trung Hoa lại càng thú vị hơn nữa. Tôi sẽ không lạ nếu mai này bên sông Cẩm Giang người ta chơi thêm hồ cầm đàn địch, để nếu có dịp ghé thăm tôi lại được thả hồn mơ mộng, hỏi rằng có phải đang tấu khúc Hồ trường Dạ Vũ Tiêu Tương?

Xin hẹn Thành Đô không xa lần tiếp theo du ký Trung Hoa sẽ gặp lại cố nhân 🙂

2. Tuyết Quốc trong mây

Có rất nhiều cái tên đẹp để dành riêng gọi cho mảnh đất của những độ cao này: Tây Tạng, Tibet, Land of the Snows, Nóc nhà thế giới, hay chỉ đơn giản là Tuyết Quốc. Một sớm mùa hè như mọi ngày nhưng có ý nghĩa đặc biệt với tôi, hôm nay tôi sẽ bay trên rặng Tuyết Sơn để đặt chân vào thánh địa Phật giáo, học theo dấu chân minh triết của người xưa lần tìm về xứ sở huyền thoại.

Rời Thành Đô, tôi đến với cửa ngõ màu xanh của Tây Tạng: Nyingchi (thuộc địa giới vùng Kham cũ). Nhấc từ đồng bằng lên cao nguyên trung bình 3000m so với mực nước biển sau vài tiếng bay, tôi choáng váng bởi không khí loãng và càng choáng váng hơn bởi những hình ảnh đầu tiên về Tây Tạng hiện ra xanh đến thế ^^ Chẳng thế mà những khách du lịch khi khám phá vùng Kham đã đặt cho nơi đây cái tên ‘Wild Wild East’ bởi sự khác biệt cực kỹ rõ nét về cảnh quan tự nhiên và điều kiện thời tiết: này là rừng cây thác nước, kia là núi tuyết thảo nguyên; thiên đường xanh Tây Tạng kỳ thú lắm!

Đường nay mây trắng gió ngàn:

Nếu như đỉnh Phan Xi Păng cao 3143m, trèo lên đến nơi là chạm vào nóc nhà Đông Dương thì ở Nyingchi cũng độ cao tương tự, tôi được chạm vào lá vào hoa của Khả Đình Câu, chạm vào thân cây Đại Bách 2600 năm tuổi, được dừng trên đỉnh Sejila cao 4702m để chạm vào sương gió ngay giữa trưa nắng hè, được hít thở cái mát rượi của rừng Lulang từ vọng lâu nhìn ra đỉnh Namche Barwa cao 7786m, đặc biệt là được chạm vào nét sơ khai của cổ giáo Ninh Mã do đại sư Liên Hoa Sinh sáng lập mà dấu tích còn lưu lại trên tu viện Tsozong giữa hồ Basum-tso:

Tạm biệt tiểu Thuỵ Sĩ vùng Kham, tôi lên đường đến với thành phố của chư thiên, trái tim của Tây Tạng: thủ phủ Lhasa. Hỏi rằng chư Phật nơi đâu? có phải là bức tượng Đức Thích Ca Thập Nhị Tuế Đẳng bên trong đền Jokhang tuổi đời chục thiên niên kỷ hay ngay trước mắt tôi kia dòng người mộ đạo bước đi giữa cái huyên náo của khu chợ Barkhor tay xoay kinh luân còn trong lòng tịnh không, hướng Phật:

Thiên kinh vạn quyển đọc bao nhiêu cho đủ? chỉ một lần lặng im đứng giữa Bát Giác Nhai sẽ dấy lên niềm kính phục nghi lễ tôn giáo khổ hạnh tràn đầy niềm tin của người Tạng dưới mái chùa Đại Chiêu buổi bình minh đầu ngày. Phải chăng người xưa có câu Nhất tu thị, nhị tu sơn để dành cho những con người này? Đời trong đục nào có hề chi, bởi họ đã đem đạo về đây giữa phố phường Lạp Tát hơn nghìn năm có lẻ, kể từ cuộc hôn phối giữa công chúa Văn Thành và Tạng Vương Tùng Tán Cương Bố thế kỷ thứ 7.

Đặt chân đến Lhasa chắc chắn ai cũng phải đến chiêm ngưỡng kiến trúc đồ sộ mang phong cách Tạng của hành cung Potala và tôi không phải ngoại lệ. Chưa bao giờ tôi tưởng tượng được trong đời mình sẽ có dịp leo mấy trăm bậc đá trắng trên độ cao 3600m để bước vào nơi thâm nghiêm cao quý nhất của cộng đồng chính-giáo Tây Tạng; và cứ như thế, tôi hăm hở thở và leo.

13 bức tượng của các Đạt Lai Lạt Ma đời trước, căn phòng của Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 sử dụng khi ngài còn tại vị, những stupa sơn son thếp vàng nạm đầy ngọc quý, những hành lang phô phang màu sắc, những cánh cổng đỏ sậm đầy quyền uy, những cầu thang lên xuống như ma trận, những bức tường được mural nhuộm thắm, những chiếc cột đen nhánh mỡ bò yak treo thangka khổng lồ, mùi nến mùi người mùi gỗ mùi ẩm mốc và mùi tiền … tất cả làm đầu óc của kẻ người trần mắt thịt như tôi rối bời!

Hiếm ai ra khỏi cung điện Potala mà lòng không hụt hẫng, lý do thì muôn vẻ nhưng tựu chung lại là cảm giác xa lạ, mất mát. Đã hơn 50 năm rồi hành cung Bố Đạt La vắng bóng chủ nhân thực sự của nó. Người Tạng cũng không còn lui tới đây thường xuyên, có chăng chỉ đi vòng kora khổng lồ dưới chân điện. Có sinh có diệt, vạn vật vô thường, Đức Thích Ca cũng từng truyền dạy điều đó áp dụng cho cả Phật pháp; mới nghe sao thấy dễ dàng nhưng đến Lhasa đối diện với thực tại đang diễn ra từng ngày thì lòng cay đắng lắm! Nhưng nếu ai hỏi tôi ấn tượng nhất với Lhasa là gì, tôi vẫn sẽ trả lời: “Potala!”. Nếu bạn một lần đến Lhasa, xin hãy bỏ sức leo lên cung, cũng như bạn đã từng không ngần ngại leo Yên Tử, leo chùa Hương, leo Côn Sơn Kiếp Bạc; bởi tôi xin cam đoan với bạn một điều rằng trên cao gió bạt tiếng eo sèo.

Potala kể từ ngày đầu được vua Tùng Tán Cương Bố đặt nền móng năm 637 cho đến lúc Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 mở rộng năm 1645 đã kinh qua bao biến thiên đổi dời; ngày nay trở thành bảo tàng độc đáo cho kiến trúc và văn hoá Phật giáo của người Tạng trên cao nguyên. Và khi đêm về trăng lên là lúc phô bày vẻ đẹp lưỡng tông Hồng-Bạch huyền ảo bí ẩn đó:

Trong cái nắng hè oi ả của kinh đô ánh sáng lúc nào cũng ngập tràn ánh mặt trời, tôi đến thăm tu viện Sera, 1 trong 3 ngôi đạo tràng quan trọng bậc nhất của thủ phủ Lhasa. Ấn tượng của tôi về ngôi đại tùng lâm này là hàng cây rợp bóng trong khuôn viên tu viện và nét mặt hứng khởi của những Tăng sĩ tuổi còn rất trẻ đang sôi nổi truy bài trong vườn Biện Kinh:

Nội dung của những cuộc tranh luận khẩu chiến này tôi không được biết, nôm na người đời bảo đó là cách để đào sâu hiểu biết về Phật điển, nâng cao tri thức trong quá trình tu học, và cũng là cách tinh tiến để đạt cảnh giới cao hơn. Tổng cộng có 6 cấp bậc trong giới Tăng sĩ Tây Tạng và việc vấn đáp sát hạch là bắt buộc để đạt được tới cấp thứ 4! Hoá ra có cách ngồi tập trung thiền định thu mình vào trong để tự giác ngộ, cũng lại có cách biện giải huyên náo để lĩnh hội giới luật như thế. Hoàng Mạo Giáo là tông giáo chú trọng nhất vào việc học đạo đúng cách, đề cao sự rèn luyện của Tăng chúng; hôm nay tôi đã được thấy phần nào điều đó:

Rời Lhasa tôi lại rong ruổi trên con đường thiên lý đến thăm thành phố lớn thứ 2 của Tây Tạng: Shigatse. Ngày đi Shigatse cũng là ngày nhiều sự kiện với tôi khi được tận mắt ngắm những kỳ quan thiên tạo và nhân tạo tuyệt diệu của Tây Tạng. Có ai không nín thở khi đứng trên đèo Karola cao hơn 5000m để ngắm màu xanh ngọc kỳ lạ của hồ San hô Yamdrok-tso đẹp ngỡ ngàng đang uốn lượn dưới chân đỉnh băng vĩnh cửu Nojin Kangtsang sừng sững ở độ cao 7191m:

Vị nữ thần nào năm xưa đã hoá thân vào hồ Yamdrok kỳ ảo này để ngày hôm nay tôi đứng đây chôn chân trong nắng gió ngắm nhìn cảnh quan mà lòng cảm khái trào dâng, thêm giận mình bất tài không tả được cái đẹp siêu nhiên chốn này!

Con đường xuống đèo chạy song song với bờ hồ mang lại góc nhìn khác về Yamdrok-tso, một góc nhìn tâm linh. Ai đến hồ cũng sẽ để ý thấy hàng ngàn ụ đá nhỏ có theo hình dạng stupa rải rác gần mép nước mà người Tạng hàng năm đi hành hương qua đây đều cung kính xếp lại như để lưu dấu trong cõi trần ai này, họ đã đến đảnh lễ chốn hồ thiêng vinh danh Phật pháp.

Khi xe chạy qua lên đỉnh đèo Karola (4960m) là lúc tôi được nhìn gần Nojin Kangtsang hơn, ngắm nhìn cái chói chang của đỉnh băng trong nắng trưa và rùng mình trong cái lạnh không cắt nghĩa được, cũng là dịp khẳng định một điều tôi đã tâm niệm từ lâu về Tây Tạng: Tuyết nơi đây trắng sạch nhất thế gian!

Dấu ấn thiên tạo của Tsang là thế, còn dấu ấn nhân tạo thì sao? tôi dừng chân bên trấn anh hùng Gyantse nghe lại câu chuyện pháo đài Gyantse Dzong nơi bao người Tạng ngã xuống đền nợ nước trong buổi đầu xâm lược của thực dân Anh năm 1904. Một thế kỷ đã qua rồi, pháo đài Dzong ngày nay vẫn sừng sững giữa thị trấn, tiếng súng gươm đã lùi vào quá khứ nhưng cuộc tranh đấu âm thầm lặng lẽ liệu đã thôi âm ỉ?

Gyantse là thị trấn nhỏ và nghèo, đường đi vắng lắm, những ngôi nhà lầm lũi như khô cháy dưới nắng cao nguyên, bóng người Tạng thấp thoáng dưới mái hiên, con đường giữa trấn như hoàn toàn tách biệt bởi dòng xe du lịch cứ chạy rầm rập, ngồi trên xe là khách thập phương tứ xứ như chúng tôi đây, chắc không có ai dừng lâu nơi này để nói được lời chào đúng nghĩa. Chạnh lòng nghĩ đến câu của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp: “người vô tâm nhiều như gió bụi trên đường”

Cách pháo đài Dzong không xa là quần thể tu viện Pelkhor Chode – nơi hoà quyện tâm linh và dung dưỡng của 2 tông giáo Tát Ca và Cách Lỗ của Tây Tạng, một hình thức tổng hoà độc đáo mà tôi bấy giờ mới có dịp diện kiến. Chưa chạy đến cổng tu viện đã thấy thấp thoáng phía xa công trình kiến trúc “dị thường” nhất của toàn vùng Tsang nói riêng và cả Tây Tạng nói chung: tháp Thập Vạn Phật

Đếm sao cho đủ chi tiết mười vạn tranh tường, bích hoạ, tượng Phật, khám thờ … bên trong tháp; chỉ biết rằng ai đến đây cũng giật mình bởi kiến trúc Stupa Muôn cửa khổng lồ đã được người Tạng nghiêm cẩn dựng lên thành kỳ quan giữa cao nguyên! Kia là 4 tầng đáy của Tứ diệu đế và 4 đôi mắt hiền từ của đức Thế Tôn đang nhìn ra bốn phương; trên nữa là 13 nấc thang phấn đấu của đời người dẫn lên cõi Niết bàn; trên thượng tầng tháp là sự minh triết, là vòm trời xanh với trăng sao mây trắng nắng vàng. Kiến thức bản thân còn hạn hẹp mà biển trí huệ thì bao la, tôi chỉ biết gửi gắm những điều mình thấy qua vài bức ảnh.

Màu sắc của Kumbum – Thập Vạn Phật tự bên trong và cả bên ngoài phải dùng tính từ dữ dội để diễn tả! Nếu sắc bao quát trắng-đỏ-tím bên ngoài tháp chịu ảnh hưởng trực tiếp của kiến trúc Nepal thì bên trong mỗi khám thờ tôi bắt gặp cách phối màu rực rỡ và có phần siêu thực của người Tạng. Mỗi gian điện lần lượt là các bức tượng thờ Quán Thế Âm, Thanh Đa La, Bạch Đa La, Tu di, Văn Thù Sư Lợi, Phổ Hiền Bồ Tát thì trên tường và trần là sẽ là vô vàn hoạ hình tương ứng. Tôi còn nhớ mãi khi đó trong lúc mắt quáng tay run chân mỏi, tôi bước vào 1 khám thờ rất tối và khi ngước lên bắt gặp tượng thân của Đức Phật Thích Ca toàn một màu đỏ sậm khoác y vàng đang nhìn xuống. Lòng tôi vừa kính sợ vừa thích thú, lễ tạ Ngài xong tôi đi lùi ra cửa mà không dám nâng máy lên chụp. Đây có lẽ là gian điện duy nhất tôi không dám chụp ảnh dù được phép.

Trên đường leo lên tháp, tôi gặp nhiều gia đình người Tạng 2-3 thế hệ cũng đang đi tham bái Kumbum, chúng tôi cùng lần từng bước lên những bậc thang nhỏ hẹp quanh co để khi lên đến đỉnh thì trao nhau nụ cười và cái gật đầu thay lời chào giữa những người không cùng ngôn ngữ. Tôi leo Kumbum mà cứ thắc mắc mãi, người Tạng vốn khá cao to mà sao những cầu thang họ làm nhỏ thế để vừa leo vừa lo đụng đầu? thế rồi tôi tự tìm cho mình lời giải đáp: Có phải chăng từ lúc sinh thời họ đã gắn bó với Phật giáo, khi còn nhỏ họ đã đến thăm viếng nơi đây và khi đã tuổi già xế bóng thì con cháu lại đưa họ tìm về chốn cũ? Nếu xa xưa lúc còn thơ bé đã có dịp vào nơi này thì chẳng phải thế giới quan hoá ra rất rộng lớn hay sao!

Đứng trên Kumbum lúc này chính ngọ, tôi nhìn bao quát toàn trấn Gyantse đang được mặt trời dát vàng ở cao độ xấp xỉ 4000m mà thầm cảm phục câu nói đầy tính triết lý của thi hào Goethe: “Über allen Gipfeln ist Ruh” – Trên tất cả những đỉnh cao là bình yên.

Rời Kumbum, con đường xuyên vùng Tsang đưa tôi đến điểm dừng cuối: tu viện Tashilhunpo ở trung tâm thành phố Shigatse, là nơi tiếp diễn sự truyền thừa của dòng Ban Thiền Lạt Ma. Những tranh chấp phức tạp nhiều thế hệ hiển hiện trong lòng xã hội chính trị-tôn giáo Tây Tạng và cả sự ganh đua giữa 2 đô thị Nhật Khách Tắc và Lạp Tát sẽ là đề tài thu hút bất cứ ai đặt chân đến đây.

Trát Thập Luân Bố ngày nay là nơi tu học của Tăng sĩ vùng Tsang, cũng là điểm du lịch không thể bỏ qua. Câu chuyện dòng Đạt Lai Lạt Ma và Ban Thiền Lạt Ma; người là học trò, người là thầy dạy; cả 2 dòng đều là những đệ tử lỗi lạc của Hoàng Mạo Giáo thờ chung thầy là đại sư Tông Khách Ba; cả 2 dòng đều có tái sinh; mỗi dòng vừa có nhiệm vụ tiếp tục truyền thừa vừa thụ ấn người tái sinh của dòng kia. Mới nghe sao mà rắc rối và biết bao điều cơ mật đi kèm, kẻ hậu sinh như tôi quả không dám lạm bàn!

Bước đi trong Tashilhunpo, tôi bị thu hút bởi tông màu đỏ rực đầy uy quyền của 4 toà điện lớn nhất trong khuôn viên viện cùng những mái vàng ròng phô bày xa hoa minh chứng cho tài nghệ xuất chúng của người Tạng.

Hình ảnh bức tượng Phật tương lai Di Lặc cao 27m với đôi mắt xanh hiền hoà trong điện Jamkhang Chenmo cùng với sân Kelsang rộng lớn bao bọc 4 phía bởi nhưng bức tường đầy màu sắc hoạ hình đức Phật trong muôn ngàn ấn thủ chắc sẽ còn đeo đuổi tôi mãi …

Thiên nhân đồng điệu ^^ tạm biệt những công trình nhân tạo đượm màu tôn giáo vùng Tsang, tôi đi dọc theo dòng Nhã Lung trở lại vùng U để ngắm những nét thiên tạo khốc liệt khác mang bản sắc cao nguyên. Đứng trên triền dốc nhìn ra con sông Yarlung Tsangpo đang chảy giữa lòng U-Tsang, tôi mừng gặp lại người bạn cũ. Mới vài ngày trước tôi lần đầu gặp Nhã Lung khi sông uốn lượn hiền hoà dưới chân đỉnh Namche Barwa đoạn chảy qua rừng xanh Lulang; còn ngày hôm nay sông như xanh hơn in bóng trời trong vắt chảy xuyên qua những vùng đất trống núi trọc cực kỳ hiểm trở, hai bên là lạo xạo sỏi đá. Tôi nhặt vài viên đá và ném mạnh ra xa, dù đã thử nhiều lần và dùng hết sức, hòn nào hòn nấy chỉ rơi xuống lạch cạch và dừng lại bên bờ mép nước. Quá xa, quá rộng, quá hùng tráng! còn con người thì quá nhỏ bé! Ngay cả con đường 318 mệnh danh là Quốc lộ Trung Hoa cũng chỉ như đường kẻ vạch trên tấm màn mênh mông bao bọc bởi trời nước núi non.

Năm xưa vương triều Nhã Lung hùng mạnh rời đô từ thung lũng Yarlung vùng Kham về Lhasa chắc chắn đã qua đây. Bao nhiêu người đã đến và bao nhiêu người sau này sẽ tới, liệu họ có như tôi cũng đứng trước sông và ngâm ngợi về quá khứ vị lai của mảnh đất này? Lý Nhuệ dành trăm trang sách Ngàn dặm không mây để viết về thôn Ngũ Nhân Bình “hai năm không mưa, nắng như thiêu đốt”; có ai đã viết cho nơi đây những lời công bằng? Mà nào có hề chi với dòng Nhã Lung hùng tráng, “Chảy đi sông ơi – Băn khoăn làm gì? – Rồi sông đãi hết – Anh hùng còn chi?”

Trở về vùng U, tôi đi thăm một nơi linh thiêng nằm trong Tứ đại hồ thiêng của người Tạng: thánh hồ Nam-tso. Nằm ở độ cao hơn 4700m, lại bao bọc bởi rặng Nyenchen Tanglha với đỉnh cao chạm trời 7162m, hồ Nam-tso rộng đến 1920 cây số vuông, gần gấp 3 lần quốc đảo Singapore! “Nhỏ” như Singapore tôi còn chưa có dịp đi hết, đứng trước hồ mà tôi tâm phục khẩu phục. Phải gọi nơi đây là biển! biển trời, biển nước, biển gió, biển mây, và may sao không phải biển người ^^

Phong vô tướng, vân vô thường, muốn cảm nhận hết vẻ đẹp và sự linh thiêng của Nam-tso đã là khó rồi, nói chi đến việc nắm bắt dáng hình đang trải dài trước mắt. Khuôn hình tôi có hạn, cảm nhận còn thô vụng, xin tặng lại Nam-tso vài phút giây ngày nắng đẹp tôi đến – một trong muôn ngàn vẻ đẹp khôn tả của chốn biển hồ trên núi, dằng dặc một khúc ca giữa bao la mây trời.

Kỷ niệm với Nam-tso trong tôi còn là buổi trưa rất vui giữa lều 1 gia đình người Tạng sát mép hồ, nơi tôi được thư thả cạn chén trà sữa bò Yak và ăn món sữa chua gia đình làm. Nồng lắm, đậm lắm, béo lắm, khó ăn lắm nhưng hãy ăn đi bởi biết đến bao giờ mới có dịp lên Tây Tạng chỉ để ngồi uống với nhau chén trà như thế?

Tôi rời Nam-tso khi ánh nắng vẫn chưa tắt trên mặt hồ. Cảnh hồ đẹp vô song nhưng tôi cầm lòng không bước xuống để chạm vào mặt nước. Có lẽ mai sau tôi sẽ luyến tiếc vì bỏ mất cơ hội đó, cũng có thể lắm bởi tôi vẫn tham-sân-si

Sang ngày thứ 9 của cuộc hành trình, tôi tạm biệt vùng U để trải nghiệm một điều thú vị khác: đi trên tuyến đường sắt độc đáo nối liền Tây Tạng và người anh em thuở trước: cao nguyên Thanh Hải. Có 2 điều tôi thích thú với đường sắt này, không phải ở những cái “nhất” đã được nghe liệt kê: một là tôi có dịp được ngắm phong cảnh giao thoa giữa ‘Tạng’ và ‘Thanh’ hay chính là vùng U với Amdo thuở trước; hai là tôi có thời gian ngồi chép lại đọc lại những điều dồn dập tôi đã thấy trong vài ngày trước mà cho dù chuẩn bị kỹ càng trước khi đi nhưng tôi không thể ngờ bức màn phía Tây lại che phủ quá nhiều điều lạ lẫm phải tai nghe mắt thấy mới thoả lòng.

Tàu hoả thì vẫn là tàu hoả, nhưng nếu nói thế mà bỏ qua cung đường này thì quả là đáng tiếc. Hãy thử tưởng tượng khi bạn đang yên vị trên tàu chạy băng băng giữa cao nguyên thì nhác thấy 1 đàn cừu con trắng con đen đang bê tha gặm cỏ, bạn vừa nâng máy lên chưa kịp chỉnh ống kính thì tàu chạy qua mất, tiếc lắm, giận lắm, lại chong mắt lên chờ đợi và mai phục, cứ thế bạn luôn tay bấm máy, thu hết những gì đẹp và không đẹp lộ qua khung cửa. Tôi dám cá rằng có những lộ trình đẹp mà trong đời bạn chỉ đi với số lần cực kỳ hữu hạn, đường sắt Thanh-Tạng là một trong số đó!

Trong một phút vô tình của những lúc chong mắt chờ đợi và mai phục đó, dãy Khả Khả Tây Lý chào tôi từ phía rất xa. Sẽ có ngày tôi tạ lỗi với Kekexili bằng những hình ảnh đầy đủ và sống động hơn thay lời chào vội vàng tối nay:

Hành trình càng thú vị thì thời gian như càng trôi nhanh hơn! Khi bóng tối đã buông, tôi cảm tưởng con tàu rất đơn độc, phóng băng băng một mình qua thảo nguyên lúc này đã rơi vào tĩnh mịch. Nhìn đồng hồ tôi giật mình khi thấy đã sang ngày mới, đây là lần duy nhất trong 11 ngày xuôi ngược mà tôi thức khuya đến thế. Một ngày đi qua, tôi đã ở trong địa phận Thanh Hải, và phía xa mặt trời cao nguyên đang lên dần với sắc đỏ dịu mắt khác với cái chói chang thường gặp ở Tây Tạng. Tôi không nhớ lần cuối tôi được nhìn thẳng vào mặt trời như thế này là dịp nào:

Ra đến Tây Ninh, Thanh Hải, tôi tưởng rằng những gì ấn tượng nhất đã qua và ngày cuối là lúc nghỉ ngơi thư giãn nhưng tôi đã nhầm! Một vùng đất tiếp giáp với Tân Cương, Tây Tạng, Cam Túc, Tứ Xuyên; là mái nhà chung của người Tạng, Hán, Hồi, Mông Cổ; là quê hương của những con sông lớn tầm thế giới như Hoàng Hà, Trường Giang, Mekong; cũng là nơi hơn 650 năm trước sinh ra tổ sư Hoàng Mạo Giáo và sau đó gần 600 năm lại đản sinh vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso. Nơi đây kỳ lạ và thâm nghiêm vượt xa tầm với của bất cứ ai!

Điểm đầu chúng tôi ghé thăm là hồ Thanh Hải rộng mênh mông, xếp hạng là hồ nước mặn lớn nhất trên đất liền của Trung Hoa. Tôi dám cược rằng sớm thôi người Tạng cũng sẽ mất tiền để vào khu vực này vì quanh hồ người ta đang hối hả xây dựng khu resort mang phong cách Tạng! chắc sẽ là khu resort đầu tiên trên thế giới mang phong cách này cũng nên! Điểm dừng thứ hai là tu viện Tháp Nhĩ nằm ở vùng Hoàng Trung, ngôi đạo tràng lớn nhất và quan trọng nhất của phái Cách Lỗ ở Thanh Hải và được mệnh danh là tiểu Potala của Tây Tạng.

Bóng cũ dáng xưa có phần mai một, tu viện Taer nay đã mấy trăm năm tuổi. Nền cũ nơi mẹ Tông Khách Ba dựng stupa cho Ngài gửi gắm vào đây bao nhiêu tình mẫu tử giờ được tôn tạo lớn hơn, đẹp hơn; câu chuyện xung quanh tuổi thơ và sự đản sinh khác thường của Ngài cũng được thêu dệt bóng bẩy hơn. Niềm tin tôn giáo vừa khiến tâm hồn người ta thảnh thơi hướng thiện nhưng cũng là cách sinh lợi cho nhiều người; âu là thuận thời thế thế thời phải thế.

Taer có đến 4 học viện với nội dung học thuật rộng lớn nhưng có vẻ việc Biện kinh tranh luận không được đề cao như trong Lhasa. Tăng sĩ trẻ có, già có, nhìn vừa gần gũi với đời, vừa xa rời lạc lõng. Nếu đem thước đo tiêu chuẩn của giới luật ngày xưa mà xét thì chắc là ngày nay chắc đã xé rào nhiều. Đúng là sự đời vần vũ như mây gió, đổi thời gian đổi cả không gian

Chỉ ở được Thanh Hải 1 ngày tôi đã phải nói lời chia tay và cũng là lúc tạm biệt Tây Tạng, mảnh đất rộng lớn linh thiêng. Thiên Lý Nhãn nhìn xa muôn dặm, liệu có thấy hết những núi cao vực sâu chốn này? Thuận Phong Nhĩ nghe ngoài nghìn trượng, liệu có rõ câu chú ngân nga trong nắng trong mưa và trong tim mỗi người dân Tạng? Gió mây sẽ lại đi về trên nóc nhà thế giới như tự ngàn năm nay vẫn chẳng đổi thay, sẽ tiếp tục thổi tung bay triệu triệu lá cờ ngũ sắc in kinh Phật giăng khắp cao nguyên. Trong lòng tôi tràn đầy xúc động và hạnh phúc bởi cũng có ngày tôi bắt kịp chính mình trong giấc mơ khi trước, bắt kịp mây gió để được một lần trong đời đặt chân đến nơi đây.

3. Ngày về

Tôi rời cao nguyên Thanh-Tạng trong đêm, sáng mai tôi sẽ trở lại với cuộc sống thường nhật ồn ào bận rộn. Sau này có dịp trở lại không biết cảm giác của tôi sẽ ra sao? Mừng vì lại được rong ruổi trên đường thiên lý thăm viếng cố nhân? Lo vì khi đó sức khoẻ và nhiệt tâm liệu còn mạnh mẽ? Buồn vì thời gian tuy trôi nhanh nhưng chưa bằng những biến thiên đa cực cuồn cuộn trong lòng Tuyết Quốc? hay tôi sẽ sợ vì không dám đối mặt với một Tây Tạng quá mới mẻ? Tôi vừa thu được và vừa đánh mất mười một ngày! Có hề gì đâu? Thời gian và mảnh đất này thật là hào phóng. Tây Tạng của ngày hôm qua, hôm nay, và mai sau sẽ luôn hào phóng như thế, dang tay chào đón những ai muốn đến đây để chiêm bái sự hùng vĩ của thiên nhiên hoà quyện với cái đẹp tâm linh của nền Phật giáo Đại thừa Mật tông thâm hậu, dẫu biết rằng vạn vật trên đời không ra khỏi vòng sinh-diệt-tái sinh. Với cuộc đời này, với sự hào phóng ấy, phải sống nhanh lên, có ích hơn, và không chờ gì cả. Có lẽ ngày xưa chính là các Ngài sống thế!

Khi tôi chia sẻ câu chuyện của mình về Tuyết Quốc, người trẻ thì háo hức, người già thì trầm ngâm. Có người hỏi vì sao tôi có nhiều đam mê với mảnh đất Tây Tạng và văn hoá nơi đây đến thế? Tôi đồ rằng kẻ ngoại đạo như tôi giống tấm vải trắng dễ ăn thuốc nhuộm, hiểu biết hạn hẹp của tôi giống cốc nước vơi rất dễ đong đầy; nên khi vén mây bước vào thế giới siêu thực này, tôi đã được thoả lòng mong đợi ^^

Giữa bầu trời lịch sử, ấy muôn triệu ánh sao
Trong dân gian vạn thưở, ấy muôn triệu đoá hoa!

Hôm tôi ở Singapore trời cũng nắng, nhưng là cái nắng “điều hoà”, một thứ nắng xoàng.

Câu chuyện tôi kể các bạn nghe đến đây là hết.

Tây Tạng Du Ký – Ngày 5: Potala Palace

4. Thăm cung điện Potala:

Rời khỏi Đại Chiêu Tự, chúng tôi hướng đến trái tim Lhasa – cung điện Potala – trong lòng khấp khởi sắp được đặt chân vào hành cung uy nghi nhất, đẹp nhất, ý nghĩa nhất trong mọi chuyến hành hương Tây Tạng. Nếu Jokhang Temple được coi là điểm đến tâm linh Phật giáo thì Bố Đạt La cung có thể coi là viện bảo tàng sống động nhất cho văn hoá Tây Tạng và là biểu tượng quyền lực gắn liền với các đời Tạng Vương và Đạt Lai Lạt Ma. Nhìn trên bản đồ, thủ đô Lhasa gần như được phân thành 2 khu rõ rệt: khu phía Tây tập trung người Hán và khu phía Đông tập trung người Tạng. Tuyến phố lớn Beijing Donglu nối liền 2 khu vực này, chính giữa 2 khu là quảng trường Potala cực rộng và cung điện Potala sừng sững trên ngọn Hồng Đồi tại trung tâm ^^

Về mặt lịch sử, Potala Palace hay Bố Đạt La cung được khởi công từ thời vua Songtsen Gampo nhưng lúc đó mới ở dạng hành cung nhỏ. Đến đời Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 Losang Gyatso thì Potala mới chính thực được chọn làm cung điện của Hoàng Mạo Giáo và nơi đây được kiến thiết lại với quy mô cực lớn, xây cất trong suốt 50 năm mới hoàn thành, tính đến nay đã hơn 6 thế kỷ mà không bị biến động thiên tạo hay nhân tạo nào làm hư hại. Sau này, cùng với sự ra đời của cung điện mùa hè Norbulingka, nơi đây chính thức trở thành cung điện mùa đông của các đời Lạt Ma.

Về mặt kiến trúc, Potala toạ lạc trên đỉnh Hồng Đồi (Red Hill hay Marpori) cao 300m so với mặt bằng thành phố – ngọn đồi được tin là tượng trưng cho Quán Thế Âm Bồ Tát (Avalokiteshvara); là 1 trong 3 ngọn đồi thiêng của thủ đô Lhasa: hai ngọn đồi còn lại là: đồi Chokpori tượng trưng cho Kim Cương Thủ Bồ Tát (Vajrapani), và đồi Pongwari tượng trưng cho Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát (Manjushri).

Nhìn vào chính giữa cung Potala là Hồng Cung (Red Palace), tường đắp màu son đỏ mà theo văn hoá người Tạng đó là biểu trưng quyền lực:

Trên nóc của Hồng Cung là nơi lưu giữ thi hài của các Đạt Lai Lạt Ma:

Bên phải Hồng Cung là Bạch Cung (White Palace) có tường đá trát đất sét trắng, được người Tạng coi là biểu tượng của hoà bình, cũng là nơi sinh hoạt của các Lạt Ma khi còn tại vị. Kiến trúc lưỡng tông Hồng-Bạch này còn áp dụng cho tất cả các cung điện lớn nhỏ khác xây trong Tây Tạng:

Nhìn sang 2 bên ở chánh Tây và chánh Đông là các vọng gác; cánh trái trên hình là Namgyal Dratsang – nơi sinh hoạt của Tăng ni:

Tổng thể cung điện Potala cao 117m, từ Đông sang Tây có chiều dài 360m, chiều rộng theo trục Bắc-Nam đo được 270m; diện tích hơn 360,000m2 bao gồm 13 tầng, bên trong chia thành hơn 1000 phòng nhỏ với gần chục ngàn Phật điện; vật liệu xây dựng cung là gỗ, đá, và bùn; độ cao trung bình so với mặt nước biển là 3600m, là cung điện xây dựng ở độ cao ấn tượng nhất thế giới. Phải nói rằng đó là một kỳ quan tôn giáo không chỉ riêng trong Lhasa mà của toàn nhân loại!

Lộ trình khám phá cung điện Potala cho mọi du khách: xuất phát từ cửa vào phía Đông bên phải, leo các bậc đá đi lên, du khách sẽ đến được Bạch Cung. Sau khi thăm hết Bạch Cung sẽ theo đường liên thông (trên nóc toà nhà có màu vàng nằm giữa 2 cung) để đi sang mái của Hồng Cung. Thăm Hồng Cung từ tầng cao nhất xuống dưới rồi ra ở cửa sau Hồng Cung, từ đó men theo con đường kora phía Tây để đi ra khỏi Potala. Chú ý: vọng gác và khu điện Namgyal Dratsang không mở cửa cho khách thăm quan; từ cửa vào Bạch Cung cho đến lúc ra cửa sau của Hồng Cung du khách sẽ không được chụp ảnh; các phòng điện nhạy cảm của Potala đều đóng cửa; trong mỗi khu điện thờ mở cửa và ở các hành lang đều gắn camera theo dõi chặt chẽ!

Trước đây phía ngoài Potala cung là hồ nước lớn, giờ đã bị lấp đi, xây thành quảng trường lớn. Con đường mới đang được trồng tỉa lại, chạy trước mặt cung điện:

Bỏ qua đường vào ở cổng chính, chúng tôi vào từ cổng chánh Tây của Potala … và như thế tôi đã đến đây … Sau lần đại trùng tu năm 1989-1994, chính phủ Trung Quốc chính thức đưa nơi đây vào khai thác du lịch. Trên tấm bia đá ghi: Cung điện Potala được Unesco đưa vào danh sách Di sản thế giới năm 1994 ^^

Ở cổng này có bàn kiểm tra hộ chiếu khách du lịch, nếu bạn mang hộ chiếu Việt Nam thì thủ tục kiểm tra nhanh chóng đến bất ngờ 😀 sau đó là khu vực máy scan an ninh – mọi thứ chất lỏng dạng chai lọ cỡ vừa và lớn cùng với đồ dao kéo, đồ bắt cháy … đều phải bỏ lại. Sau cửa này du khách mới thực sự đặt chân vào quần thể cung Potala, hình ảnh chánh Tây của cung – khu vực này không mở cửa cho khách vào thăm:

Con đường từ của phía Tây hợp lưu với đường vào từ cổng chính đi đến trạm soát vé thứ hai:

Từ đây ngước nhìn lên, cung Potala cao vời vợi … chỉ vài trăm bậc đá nữa là tới được cửa vào Bạch Cung; mới nghe tưởng dễ dàng nhưng có leo từng bậc Potala mới thấy cái khắc nghiệt của thời tiết Lhasa; trong điều kiện không khí loãng bằng 68% mức thông thường, ở độ cao hơn 3600m, du khách ai cũng thở khò khè trong gió khan và nắng cháy, lại không được quên chụp ảnh xung quanh 😀

Con đường trắng tưởng như vô tận sẽ kết thúc ở cửa lớn dẫn vào khu vực tiền sảnh Bạch Cung. Lên đến đây, ai cũng phải dừng lại thở lấy sức, đồng thời đợi các đoàn đi trước vào hết bên trong để khỏi chen chúc:

Từ đây đã có cái nhìn bao quát hơn về quảng trường phía trước Potala cung:

Tiền sảnh Bạch Cung:

Cổng lớn ở tiền sảnh Bạch Cung trang trí gỗ mun đỏ thắm buộc vải ngũ sắc, phía trên cánh cổng khổng lồ là phù điêu 7 con sư tử trắng với dòng chữ: Cánh cổng dẫn đến sự phồn vinh (The gate of storing prosperity). Nếu được vào cửa chính Hồng Cung, du khách sẽ gặp cổng lớn khác cũng bằng gỗ đỏ nhưng buộc lụa trắng, phía trên là dòng chữ: Con đường dẫn đến sự giác ngộ tâm thức hoàn toàn (The path to perfect spiritual enlightenment). Tuy nhiên cổng chính Hồng Cung thì hiếm ai được ngắm, lý do vì lộ trình đi thăm Potala xuất phát từ Bạch Cung rồi đi thông vào Hồng Cung từ trên nóc, đến lúc xuống thì ra bằng cửa hậu nên không qua cửa chính. Thông tin vừa nêu được người viết tham khảo từ sách The Potala do Unesco xuất bản.

Hai bên cổng là mural của Tứ Đại Thiên Vương (Four Guardian Kings), được xem là tứ tướng hộ pháp của Đại thừa Mật tông. Vị mặt vàng là Bắc Vương Đa Văn Thiên tay cầm lọng, vị mặt đỏ là Tây Vương Quảng Mục Thiên tay cầm stupa, vị mặt xanh là Nam Vương Tăng Trưởng Thiên tay cầm kiếm, và vị mặt trắng là Đông Vương Trì Quốc Thiên tay cầm đàn. Những bức hoạ hình này là những mural lớn nhất, đẹp nhất, và chi tiết nhất về bốn Thiên Vương có thể nhìn thấy trong Tây Tạng:

Trong truyện Phong thần của Hứa Trọng Lâm có tích Ma Giai Tứ Tướng với câu chuyện bốn anh em họ Ma (Ma Lễ Thanh, Ma Lễ Hải, Ma Lễ Hồng, và Ma Lễ Thọ) phò Trụ Vương Ân Thọ đánh Tây Kỳ có nét tương đồng với tứ đại thiên vương. Tuy nhiên khắc hoạ của Ma Giai Tứ Tướng mang phong cách của Đạo giáo chứ không phải Phật giáo, xét về niên đại cũng ra đời trước rất lâu – khi đó nhắm vào cuối thời Ân Thương trước công nguyên và nhà Chu dựng cơ nghiệp đất Thần Châu; còn Phật giáo phải đến thời Đường sau công nguyên mới trực tiếp ảnh hưởng vào Tây Tạng. Các bức tranh tường của bốn vị Hộ pháp ở cung Potala thể hiện thuần tuý quan niệm của người Tạng chứ không hề có sự lai tạp nào.

Tiếp tục đi qua các dãy hàng lang ngắn, du khách sẽ đến được sân trong của Bạch Cung (tiếng Tạng gọi là Deyangshar) vốn là nơi tổ chức các hoạt động lễ hội Phật giáo; bên phải sân là khu nhà 2 tầng màu vàng là nơi sinh sống của Tăng ni, bên trái là phòng tu học của Tăng ni, còn ở giữa là chính điện Bạch Cung:

Bạch Cung nhô cao kỳ vĩ giữa nền trời xanh thẳm, tuy chỉ có 5 tầng lầu nhưng kiến trúc Bạch Cung tiêu biểu cho lối xây thượng thu hạ thách độc đáo mang màu sắc Tây Tạng, những tường xây bằng đá phiến trát đất sét trắng nghiêng vào bên trong chứ không thẳng đứng, mỗi tầng lầu là các cửa sổ lớn và ban công phủ vải bạt đen, trên mái vòm vuông vức sử dụng màu đỏ và màu vàng để trang trí. Tổng hoà 3 màu sắc trắng, đỏ, vàng tượng trưng cho hoà bình, quyền lực, và sự viên mãn. Chỉ tiếc từ cánh cổng này trở vào trong cho đến khi ra cửa sau của Hồng Cung đều cấm chụp ảnh, người viết chỉ chụp lén được vài tấm khi đi thăm quan bên trong và ở đoạn mái nối liền 2 cung:

… Như bị lường gạt, các đoàn khách đi lướt qua các gian điện thờ, ngắm nhìn các pho tượng và tranh tường trong chớp mắt, chưa kịp hiểu mình đang ở đâu thì đã bước tới cửa sau của Hồng Cung:

Ra đến ngoài cửa sau của Hồng Cung, khách du lịch ai cũng thấy hụt hẫng! Nội cung chiến thành vĩ đại của người Tạng đó sao? cung điện mùa đông của Đạt Lai Lạt Ma chỉ là nhiêu đó? Có lẽ do chủ ý của Trung Quốc làm khách thăm quan không ai chiêm ngưỡng được vẻ đẹp quý báu thực sự của Potala: hàng người này đến hàng người khác xô đẩy luồn lách trong những hành lang nhỏ tối om om; giọng hướng dẫn viên oang oang vẳng vào từng góc nhỏ; những căn phòng đóng cửa, những ổ khoá im lìm, camera bí mật bố trí ở tất cả các cửa ra vào; ánh sáng vàng vọt le lói trên cao không đủ soi tỏ bệ thờ, những pho tượng nghìn tuổi được khoá sau những hàng rào gỗ cao quá đầu người, những tấm thangka và tranh tường khuất sau lưới sắt, những mandala 3D cất trong tủ kính mờ, những câu kinh Phạn-Tạng cuộn thành từng gói nằm phủ bụi trên kệ; những tấm biển chú thích sơ sài dưới chân những Stupa vàng ròng cực lớn … Người ta không cảm thấy được sự thâm nghiêm và cao quý của nơi đây, cái hồn xưa cũ của Potala dường như đi vắng!

Người viết may mắn trong lúc sắp rời khỏi Hồng Cung đã kịp mua cuốn sách The Potala của Unesco, ấn bản 1993 giá 160RMB, dành riêng để giới thiệu về cung. Cuốn sách này không bán ở bất cứ đâu ngoài khu vực cung Potala! sau khi mua, cuốn sách được đóng một triện màu đỏ 3 thứ tiếng Anh-Tạng-Trung: A Souvenir of the Potala Palace ^^ Sách dày 165 trang, tất cả đều in màu chụp lại toàn bộ các điểm nhấn kiến trúc của Potala, các điện thờ quan trọng của Hồng Cung và Bạch Cung, những Stupa chính cùng các pho tượng Phật quý giá cất bên trong cung, kiến trúc mái vòm kinh điển của cung … Đây là 1 tài liệu tham khảo cực kỳ quý giá để khách phương xa hiểu được những giá trị văn hoá và thấy hết vẻ đẹp mà cung Potala sở hữu. Xin được giới thiệu với bạn đọc một số hình ảnh chụp lại từ sách, những hình ảnh này hầu như chưa xuất hiện trên mạng, và kể cả có đi thăm Potala ngày nay chắc cũng khó lòng mà mục kích được:

– Bên trái là cổng tiền sảnh Bạch Cung, bên phải là cổng tiền sảnh Hồng Cung:

– Hành lang nội cung sơn son thếp vàng, trên tường là những thangka hoạ hình Đạt Lai Lạt Ma:

– Mái cung Potala toát lên sự oai nghiêm quyền lực:

– Ảnh là đỉnh mái vàng (Golden Dome) của Stupa lớn chứa thi hài Đạt Lai Lạt Ma thứ 13, xây năm 1936. Kiến trúc mái vòm Potala được trang trí đầu chim thần garuda, bên dưới mái là kết cấu ngàm đỡ nhiều tầng vô cùng chắc chắn, đảm bảo vòm chịu được chấn động và gió lớn:

– Ngoài tượng thân của 13 vị Đạt Lai Lạt Ma giữ bên trong cung, Potala còn có tượng vua Songtsen Gampo và các quan đại thần Thổ Phồn:

– Tượng Đức Phật Thích Ca (Shakyamuni) bằng vàng ròng tạc song song với tượng Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 Losang Gyatso bằng bạc từ thế kỷ 17:

– Tượng đồng của Phật A Di Đà (Amitabha hay Amitayus):

– Và tất nhiên không thể thiếu được tượng bạc của đại sư Tông Khách Ba (Tsongkhapa) là người sáng lập Hoàng Mạo Giáo (Gelugpa Sect) tạc từ thế kỷ 17:

– Bức tượng quan trọng nhất trong cung Potala: Quán Thế Âm Bồ Tát (Avalokitesvara) được mang vào Tây Tạng từ thế kỷ thứ 7:

– Stupa Tomb của Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 Thubtan Gyatso: cao 12.97m, rộng 7.83m, làm từ 18,870 lượng vàng ròng, bên trong có chứa cả di hài của Phật Thích Ca Mâu Ni. Đây chỉ là 1 trong hàng chục Stupa bằng vàng ròng được lưu giữ trong cung Potala:

– Trong 4 bậc của Stupa tượng trưng cho Tứ Diệu Đế (có dịp điểm qua với bạn đọc ở bài trước), người Tạng trang trí bằng kim cương, đá quý, hồng ngọc, lục ngọc; mỗi viên có kích thước lớn và đều là tài sản vô giá:

– Những Mandala 3D độc nhất vô nhị bằng đồng được đúc cách đây hàng trăm năm:

– Thangka cổ kể lại lễ hội năm 1695 sau khi cung Hồng Cung được xây dựng xong:

– Thangka cổ hoạ hình Đạt Lai Lạt Ma thứ 1 và thứ 3 – tác phẩm của trường phái Menthang:

– Thangka vẽ từ thời nhà Đường cũng thuộc trường phái Menthang:

– Hình tượng Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát (Manjushri) qua bút pháp của trường phái Khen-tse từ thế kỷ 17:

– Các báu vật khác trong cung: giáo huấn của Phật viết bằng tiếng Phạn trên giấy cọ (palm tree leaves):

– Khèn làm bằng vàng của người Tạng để thổi báo hiệu giờ nghỉ khi tụng kinh:

– Những pho sách cổ nhất lưu giữ trong cung:

Hy vọng vài hình ảnh trên cho bạn đọc cái nhìn chính xác hơn về những báu vật liên thành đang được bảo quản bên trong bảo tàng văn hoá Potala 🙂 Quay trở lại với bài viết, chúng tôi men theo con đường phía sau để đi xuống. Được biết con đường này vốn dành cho các nhà sư cưỡi ngựa lên Potala, riêng Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 còn lái xe ôtô lên xuống!

Khu vực công viên phía sau Potala nhìn từ trên cao:

Cánh cổng cuối cùng của quần thể cung Potala, ra khỏi đây, chúng tôi lại bắt đầu một cuộc đi dạo mới, đó là đi hết vòng Kora lớn theo tường bao ngoài dưới chân cung điện:

Con đường này đẹp tuyệt vời! hàng trăm chiếc kinh luân màu đồng óng ả in nổi câu kinh Om Mani Padme Hum xếp dọc theo tường, chốc chốc lại có người đi tra dầu bôi trơn cho từng chiếc, những đoàn người Tạng vừa đi vừa đẩy kinh luân xoay theo chiều kim đồng hồ giữa cái nắng trưa oi ả. Ở đây, người viết gặp nhiều người Tạng hơn cả, khác với bên trong cung điện Potala đa phần là khách thập phương:

Ngước nhìn lên có thể thấy phía sau của cung Potala:

Ba stupa lớn trong công viên phía sau cung Potala:

Con đường Kora kết thúc cũng là lúc du khách đến bến xe buýt trước cửa cung Potala. Lúc này cả đoàn ai cũng đã thấm mệt, mọi người lên xe đi ăn trưa:

5. Món quà Lhasa:

Sau bữa ăn trưa, chúng tôi đi thăm Bảo tàng Tây Tạng (Tibet Museum) nằm đối diện với cung điện mùa hè Norbulingka. Bảo tàng này không lớn nhưng quy tụ khá đầy đủ các thông tin giới thiệu về văn vật Tây Tạng, điểm thú vị nữa là hướng dẫn viên bảo tàng nói tiếng Anh rành rọt, còn về phần trưng bày chắc bạn đọc cũng đoán ra: đó là các phòng giới thiệu về đồ thủ công mỹ nghệ, thảm dệt, lục ngọc hồng ngọc đá quý san hô Tây Tạng, vòng đeo tay và trang sức … nhưng thu hút người viết nhất chính là phòng trưng bày Thangka và Mandala Tây Tạng. Tuy không phải bức nào cũng là tranh cổ, giá cả thì vô cùng – từ vài trăm RMB đến vài chục nghìn RMB – nhưng phần lớn các Thangka treo ở đây đều khá đẹp và được Tăng ni trong tu viện Tây Tạng vẽ trực tiếp, tiền bán tranh sẽ được chia lại 70% cho tu viện. Vốn đam mê nghệ thuật tạo hình Tây Tạng thể hiện qua các bức tranh, người viết đã có món quà thứ hai của Lhasa – đó là bức Mandala vẽ bằng bột vàng trên nền giấy bồi đen, vài hình ảnh xin chia sẻ cùng bạn đọc:

Đi từ vòng ngoài vào trong, Mandala này tạo hình nhiều lớp, mỗi lớp lại được vẽ bằng tay và đánh bột màu tỉ mỉ:

Chính giữa tranh là chữ Om:

Viền ngoài của tranh là các bánh xe Pháp Luân có 8 trục. Theo quan niệm Phật giáo Tây Tạng, bánh xe Pháp có 6 trục là biểu hiện của Lục Đạo (Trời, Người, A tu la, Súc sanh, Ngạ Quỉ, Ðịa ngục), nếu 8 trục là tượng trưng cho Bát Chính Đạo – con đường giải Khổ (Chính kiến, Chính tư duy, Chính ngữ, Chính nghiệp, Chính mệnh, Chính tinh tiến, Chính niệm, Chính định), còn 12 trục là biểu hiện của Thập Nhị Nhân Duyên. Những bánh xe Pháp thường gặp trong Tây Tạng như bánh xe Pháp trên nóc chùa Đại Chiêu (Jokhang Temple), trên nóc tu viện Sera ở Lhasa hay tu viện Tashilhunpo ở Shigatse đều là loại 8 trục:

Trang trí ở các góc của tấm Mandala:

… Vậy là tôi đã được thoả nguyện, ước mơ bấy lâu đã thành sự thực, tôi đã có được những món quà mà chỉ tới Tây Tạng mới tìm thấy được! Trở về khách sạn mà vẫn còn lâng lâng trong dạ, Lhasa đã gần 8h tối nhưng ráng chiều vẫn dệt vàng trên những đỉnh núi, mở cửa trông ra tôi chỉ thấy cái tĩnh tại của núi xám và đặc biệt là thấy Potala cung lặng im trên đỉnh đồi phía xa.

Chắc phải lâu lắm nữa tôi mới có dịp đứng ngắm Potala như thế này. Chưa thấy ai viết tặng Potala mấy vần thơ, tôi xin mượn ý thơ trong Thăng Long thành hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan sẽ hợp tâm trạng hơn:

    Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
    Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương
    Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo,
    Nền cũ lâu đài bóng tịch dương …

Chưa đến Potala thì chắc tôi không hình dung được bên cạnh dáng vẻ uy nghi hoành tráng, nơi đây đang trải qua những biến động ngầm, thách thức sự tồn vong của nền văn hoá cao nguyên lâu đời. Người Tạng thường làm ra những Mandala cát rất đẹp và công phu rồi lại quét bỏ đi như một cách biểu hiện tính vô thường của hiện hữu; phải chăng những gì họ tạo dựng được hàng nghìn năm qua đang phải đối mặt với một giai đoạn mới trầm luân hơn, như 1 quy luật của tạo hoá có thịnh có suy? Nói về Potala cung, vị đáo bình sinh hận bất tiêu (đi mà chưa đến cả đời hận khôn nguôi), nhưng liệu đắc đáo hoàn lai hận khả tiêu (đến rồi khi về có thực sẽ nguôi ngoai)?

Bài viết ngày 5 gồm 4 phần giới thiệu tổng quan về Phật giáo và văn vật Tây Tạng cùng hai nơi quan trọng trong Lhasa (chùa Đại Chiêu và cung Potala) đến đây là kết thúc. Khi màn đêm buông xuống trên Lhasa cũng là lúc tôi pha ly trà nóng vừa thưởng vừa đọc cuốn The Potala. Ngày mai lại là một ngày mới đầy nắng gió và tôi sẽ ở trên con đường 250 cây số nối liền Lhasa với Shigatse – thủ phủ vùng Tsang; xin hẹn bạn đọc trong bài viết ngày thứ 6 🙂

Tây Tạng Du Ký – Ngày 5: Jokhang Temple

3. Đi thăm Đại Chiêu Tự:

Sáng ngày thứ 5 thức giấc, ấn tượng qua 1 đêm là hình ảnh cung Potala chập chờn trong giấc ngủ và cơn nhức đầu khó chịu nhất từ lúc bắt đầu vào Tây Tạng. Ở độ cao trung bình 3500m, thủ phủ Lhasa quả không phải là nơi để khách phương xa dễ dàng thích nghi, chưa kể thời tiết tháng 6 là nóng nhất trong năm (~ 23 độ C ngoài trời), chưa đến 7h sáng mà ánh nắng đã chan hoà trên những rặng núi cao và lan dần vào thành phố 😀

Chỗ chúng tôi ở là khách sạn Himalaya (6 East Linguo Road), phòng khá sạch đẹp, có nước ấm 24/24, trong phòng cũng có máy thở oxi đề phòng khách du lịch chưa quen với không khí loãng trong Lhasa (giá thuê máy là 50RMB), tầng trệt của khách sạn cũng có cửa hàng bán đồ lưu niệm. Nhược điểm lớn nhất của hotel là vị trí hơi xa trung tâm quảng trường Potala, từ đây cần khoảng 15′ đi bộ để đến được khu phố Bakhor. Kế hoạch trong ngày 5 là dạo quanh Lhasa, đi bộ khu chợ Bakhor và vào thăm Đại Chiêu Tự (Jokhang Temple) buổi sáng, đến trưa sẽ đi thăm cung điện Potala, và chiều về thăm bảo tàng Tây Tạng (Tibetan Museum).

Sau bữa sáng nhẹ của khách sạn, chúng tôi bắt đầu lên đường khám phá Lhasa 🙂 Vài hình ảnh khách sạn Himalaya:

Ấn tượng đầu tiên khi đi dạo phố ở Lhasa là người dân ở đây dậy rất sớm, có lẽ bởi mặt trời ló dạng đằng Đông sớm hơn các vùng khác. Trên đường phố ở đâu cũng bắt gặp đoàn người hành hương và người bản xứ đang cùng song hành hướng về một phía – chắc bạn đọc cũng đoán ra – quảng trường Potala. Không khí ban mai của thủ đô trong lành, mát mẻ, có phần se se lạnh. Trời tuy nắng nhưng gần như không thấy ai mặc áo ngắn tay. Lòng vòng trong những con đường tắm nắng, ngắm nghía những ngôi nhà, góc phố, cùng người dân Tạng, du khách có thể thoải mái chụp ảnh, chỉ trừ các bốt gác lưu động trên đường với súng ống và đồ trực chiến của quân đội Trung Quốc! Một vài hình ảnh qua ống kính người viết về buổi sáng thường nhật nơi đây:

Nét cũ mới chen nhau ở Lhasa chắc không còn xa lạ gì trong những thập kỷ gần đây. Những khung cửa sổ trang trí mandala nhiều tuổi kế cận với những ngôi nhà người Hán mới xây càng minh chứng rõ ràng hơn cho cuộc sống đa sắc tộc trong lòng Lhasa:

Chúng tôi vào thăm một tự viện nhỏ nằm kín đáo bên trong các ngõ hẻm của khu chợ Bakhor, vì tự viện không cho chụp ảnh nên chỉ có vài hình ảnh phía ngoài chia sẻ cùng bạn đọc:

Sáu chiếc kinh luân (pháp khí của Mật tông) ứng với Lục Tự Đại Minh Chú – Om Mani Padme Hum:

Bên trong tự viện, tôi bắt gặp ở gian thờ Phật dắt trên khung cửa là những tờ tiền 2,000 hay 5,000 đồng Việt Nam, đầy phấn khích tôi cũng để lại một tờ tiền Việt làm kỷ niệm mùa hè đến thăm nơi đây ^^ Người Tạng mua những túi cây khô như thế này để đốt, khói trắng từ stupa lan toả trên nền trời xanh thẳm:

Nụ cười người Tạng: tay phải là chiếc chuyển kinh luân xoay theo chiều kim đồng hồ, tay trái là bọc tiền lẻ Nhân Dân Tệ. Tôi mất 1 RMB để chụp được bức ảnh này, tuy nhiên không nên lấy đó làm lạ, cũng chẳng hoài công xét đoán làm gì! Có chăng lại nhớ câu chuyện 2 vị tôn giả A Nan, Ca Diếp xưa cũng từng đòi Đường Tăng phải đổi bát tộ vàng thì mới trao cho Kinh pháp; nhìn theo góc độ học đạo thì đạo pháp không thể truyền thụ dễ dàng cho nên kẻ muốn thọ giáo phải đánh đổi. Thêm nữa, kiến giải của A Nan, Ca Diếp là phải có ăn để sống mà viết ra kinh, còn với tay trắng mà đòi lấy kinh truyền đời thì người sau có mà chết đói. Có thực mới vực được đạo, cái sự tưởng chừng như đơn giản mà khó lãnh hội biết bao! Câu chuyện cũ lướt qua trong tôi giây lát, rồi lại về với thực tại phố phường Bakhor:

Rời tự viện, chúng tôi rảo bước trên con đường dẫn đến Đại Chiêu Tự. Trong tiếng Tạng, Bakhor Square có nghĩa là Bát Giác Nhai, nơi đây lấy Jokhang Temple làm tâm điểm, là nơi nhộn nhịp thứ nhì trong trung tâm Lhasa, chỉ sau quảng trường Potala. Đường đến Jokhang đầy nắng và gió, hai bên đường là các quầy hàng bán đồ lưu niệm Tây Tạng sặc sỡ sắc màu:

Những người dân Tạng đi vòng quanh Đại Chiêu Tự theo chiều kim đồng hồ, coi đó là vòng Kora khổng lồ bao ngoài tự. Ngay trước cửa Jokhang Temple là 2 cây cột lớn quấn kỳ ngũ sắc của Phật giáo. Theo lời của hướng dẫn viên du lịch sau này chỉ cho chúng tôi biết, những nơi nào có 2 cột lớn như vậy là biểu trưng thánh địa được Phật giáo hộ trì, bên trong sẽ thờ tượng Đức Phật cùng chư vị Bồ Tát và các Hộ Pháp nhà Phật:

Ngay bên ngoài Jokhang Temple, ở hai phía tả hữu là dòng người hành hương mộ đạo làm lễ ngũ thể nhập địa tiêu biểu nhất trong các nghi lễ bái Phật của Tây Tạng: trước tiên là 2 tay chụm lại làm thành hình như búp sen chưa nở, sau đó chạm lên đầu, chạm xuống phía dưới cằm, rồi chạm xuống ngực, thân hình theo đó mà cúi thấp xuống, 2 tay đưa về phía trước rồi đầu gối quỳ xuống cho đến khi chạm toàn thân xuống đất, khi đã nằm song song với mặt đất thì 2 tay lúc này ở phía trên đầu, ngón tay có thể lần 1 hạt trong tràng hạt hoặc bấm vào 1 máy nhỏ đeo ở cổ tay; như vậy là làm xong 1 lần lễ. Người Tạng đến Đại Chiêu Tự bày tỏ lòng thành bằng hình thức bái lạy như thế, ít nhất là lần hết 108 hạt trong tràng hạt hoặc làm đến 10,000 lần! (có sự tích đằng sau con số 10,000 này mà người viết sẽ chia sẻ với bạn đọc trong bài viết ngày cuối ở Thanh Hải :P)

Không ai bảo ai, trong cái nắng ban mai đang chiếu rọi trên nóc chùa Đại Chiêu, chúng tôi im lặng chôn chân trước nghi lễ tôn giáo khổ hạnh nhưng mang niềm tin tâm linh mạnh mẽ đó:

Như đã có dịp điểm qua với bạn đọc, Đại Chiêu Tự được xây vào giai đoạn 642 sau Công nguyên bởi vua Tùng Tán Cương Bố (Songtsen Gampo). Thực ra ban đầu chùa được vua dựng để thờ tượng Phật mà công chúa Nepal Ba Lợi Khố Cơ mang vào Tây Tạng, nhưng sau tượng này được chuyển sang Tiểu Chiêu Tự còn Đại Chiêu Tự lúc đó bắt đầu thờ tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Thập Nhị Tuế Đẳng (Twelve-years old Shakyamuni, hay Jowo Rinpoche) do công chúa Đường quốc Văn Thành mang vào Tây Tạng từ thế kỷ thứ 7.

Bước vào sân chùa Đại Chiêu, du khách sẽ bị cuốn hút bởi sự trang nghiêm toát lên từ kiến trúc rực rỡ pha trộn tinh hoa Ấn Độ, Nepal, Tây Tạng, và cả nhà Đường của Trung Hoa. Màu sắc mỗi cây cột dọc hay xà ngang càng nổi bật hơn khi có ánh nắng chiếu vào. Trên đầu mỗi cột đều có hình Đức Phật Thích Ca với các tư thế toạ thiền và tay ấn khác nhau, còn trên các xà con giữa các thân cột là những câu kinh Tạng:

Mỗi bức tường của Jokhang đều là những bức tranh mural khổng lồ với hoạ hình Phật Thích Ca đẹp cổ kính, màu sắc trải qua hơn 10 thế kỷ nhưng nhìn vẫn lạ lẫm và cuốn hút:

Trước cửa của chính điện Jokhang là tấm màn che lớn có hình ảnh quen thuộc của Phật giáo: Bánh Xe Pháp Luân – tượng trưng cho Phật giáo muôn đời (Buddhism Forever), 2 con hươu trong truyền thuyết Phật Thích Ca thuyết giảng nơi vườn Lộc Uyển (Sarnath), và ngoài cùng là tháp Bồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya) nơi Đức Phật giác ngộ và giải thoát. Những hình ảnh này còn được tạc thành tượng vàng đặt ngay trên nóc chính điện của chùa. Dưới mặt đất là chữ Vạn (Svastika) bằng đá lớn xoay theo chiều kim đồng hồ mà người Tạng tin rằng sè mang đến phúc lộc an khang:

Chùa Đại Chiêu xây theo hướng Tây, cao 4 tầng và rộng tổng cộng 25,000m2; bên trong chùa ngoài tượng Đức Phật Thích Ca dát vàng được bảo vệ cẩn mật, còn có các bức tượng và gian điện thờ sư tổ Hoàng Mạo Giáo – đại sư Tông Khách Ba (Tsongkhapa) cùng các đại đệ tử, tượng các Tạng Vương Thổ Phồn, tượng các Hộ Pháp của phái Cách Lỗ (Gelugpa Sect) có kích cỡ bằng người thật, và tất nhiên cấm chụp ảnh! Một vài hình ảnh của chùa, kể cả những hình người viết lén chụp được:

Đại Chiêu Tự có rất nhiều phòng như thế này được giăng lưới sắt để bảo vệ, bên trong là những pho tượng lâu đời quý hiếm nhất của toàn Tây Tạng:

Ánh sáng bên trong chùa lấy ánh sáng tự nhiên là chính, kết hợp với những ngọn đèn nến làm từ mỡ bò Yak khiến màu sắc bên trong chùa lung linh huyền ảo hơn. Khác với chùa của Trung Quốc hay Việt Nam, các chùa ở Tây Tạng không nghi ngút khói hương, thay vào đó là mùi nồng nồng của mỡ bò bởi theo người Tạng, mỡ bò Yak khi đốt không tạo ra khói nhờ đó không gây hư hại đến các bức tượng hay tranh thangka treo trong chùa, ngược lại, mỡ bò Yak như phủ một lớp bóng đặc trưng lên các pho tượng. Những người hành hương mộ đạo khi vào lễ bái các tu viện và chùa chiền đều không quên mang theo một chiếc phích chứa mỡ bò Yak mà họ sẽ thành kính rót vào các lư đèn như một sự dâng hiến nhỏ vinh danh Phật pháp:

Vì là chùa linh thiêng nhất và lâu đời nhất trong Lhasa, Jokhang Temple như bị bao vây bởi đoàn người hành hương cũng như khách du lịch tứ phương kéo về, sức chen lấn cũng không kém gì hội chùa Hương! chỉ khác là không ai mang lễ vật hương hoa; riêng người Tạng thì mỗi bước đi đều lẩm nhẩm câu kinh Phạn-Tạng, khiến cho bầu không khí tuy đông nhưng hết sức thâm nghiêm. Nếu nhắm mắt mà tưởng tượng, người ta có thể nghe thấy bài ca tôn giáo nghìn lời hoà chung đang ngân nga dưới mái chùa Đại Chiêu trong ánh nắng vàng tưởng chừng như vô tận của Lhasa; bài ca đó thay tiếng trống chiêng, thay âm chuông mõ, cứ ngân nga nhịp nhàng đều đặn, mới đó mà đã 1300 năm rồi … bao nhiêu triệu triệu con tim đã đến rồi đi, ai cũng để lại Jokhang một chút hồng trần và mang đi một phần thanh tịnh …

Đi hết 1 vòng Đại Chiêu Tự, chúng tôi trở ra ngoài, quay lại chợ Bakhor để hướng về quảng trường Potala. Lúc này trời đã sắp sang trưa.

Điểm đến tiếp theo sẽ là Potala cung ^^

Tây Tạng Du Ký – Ngày 5: Văn vật Phật giáo Tây Tạng

Trở lại với bạn đọc trong bài viết ngày 5 ^^

2. Văn vật trong Phật giáo Tây Tạng:

Phật giáo Tây Tạng cuốn hút với nhân loại không chỉ bởi những tinh hoa pha trộn giữa Đại thừa phái (Mahayana), Mật tông (Tantrayana), và tôn giáo cổ Tây Tạng (với Bon giáo là điển hình) mà còn bởi những văn vật để lại cho đời. Có lẽ không nơi đâu trên trái đất này lại quy tụ đầy đủ và nhiều di chỉ Phật giáo như Tây Tạng, từ đền chùa thành quách đại viện tiểu viện cho đến tượng Phật, kinh sách luật tuyển, cờ phướn; rồi đồ dùng trong lễ bái, tán tụng, cúng dường, trì nghiệm, hộ ma, khuyến đạo … dường như không thống kê nào kể xiết! Trong bài viết ngắn ngủi này, người viết không đủ khả năng và cũng không có tham vọng tổng kết hết những tinh tuý của nơi đây, chỉ muốn dành đôi dòng nhắc đến những văn vật thường gặp trên đường khám phá Tây Tạng 🙂

a. Đại kỳ ngũ sắc:

Đi thăm Tây Tạng nói riêng và các quần thể Phật giáo nói chung, du khách hay bắt gặp các cờ phướn 5 màu tung bay trong gió. Nếu để ý kĩ, cờ ngũ sắc Tây Tạng có 5 màu (trắng, đỏ, lục, vàng, lam) hơi khác so với lá cờ Phật giáo (trắng, đỏ, cam, vàng, lam). Một trong các lý do có thể giải thích là: lá cờ Phật giáo chính thức ra đời năm 1889, còn Phật giáo Tây Tạng mà ảnh hưởng bắt nguồn từ Ấn Độ giáo thì đã có từ lâu đời, trải qua thời gian sẽ xuất hiện vài sai khác, tuy nhiên điều này không làm thay đổi ý nghĩa biểu trưng.

Số 5 không chỉ tượng trưng cho Ngũ Hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) tương sinh tương khắc làm nên vạn vật, còn ứng với Ngũ Trí của Mật tông miêu tả về trí của con người (Pháp giới trí, Đại viên kínha trí, Bình đẳng tính trí, Diệu quan sát trí, Bình đẳng tác trí), đồng thời hợp với Ngũ Uẩn (Sắc, Thụ, Tưởng, Hành, Thức) là 5 yếu tố tạo thành thân tâm, và là Ngũ Bộ Chú – nghi thức trì niệm của Mật Giáo (Tịnh Pháp Giới, Văn Thù Nhất Tự Hộ Thân, Lục Tự Đại Minh, Chuẩn Đề Cửu Thánh, và Nhất Tự Kim Luân Phật Đỉnh); nhưng trên hết là biểu thị sức mạnh và sự thống nhất giữa Ngũ PhươngNgũ Phật:

Ngũ Phật (Five Wisdom Buddhas) có thể coi là biểu hiện siêu việt nhất trong thế gian, các vị này là thầy của các Bồ Tát. Đồng thời, trong mỗi thời đại loài người, các vị lại hoá thân thành Phật lịch sử – có hình dạng người sống trên thế gian. Trong thời đại chúng ta, vị Phật lịch sử đó chính là Phật Thích Ca Mầu Ni (Shakyamuni Buddha), còn vị Phật được tin rằng sẽ xuất hiện trong tương lai (Future Buddha) là Phật Di Lặc (Maitreya Buddha). Vì thế mỗi khi nhắc đến Ngũ Phương Phật, người ta sẽ nhắc đến vị Phật lịch sử và vị Bồ Tát tương ứng:

– Trung ương: Đại Nhật Như Lai (Tathagata); Phật lịch sử là Ca-la-ca-tôn-đại (Krakuccanda) và Phổ Hiền Bồ Tát (Samantabhadra)
– Hướng Đông: Bất Động Như Lai (Aksobhya); Phật lịch sử là Ka-na-ca-mâu-ni (Kanakamuni) và Kim Cương Bồ Tát (Vajrapani)
– Hướng Nam: Bảo Sinh Phật (Ratnasambhava); Phật lịch sử là Ca-diếp (Kasyapa) và Bảo Thủ Bồ Tát (Ratnapani)
– Hướng Tây: Di Đà Phật (Amitabha); Phật lịch sử là Thích-ca-mâu-ni (Shakyamuni) và Quán Thế Âm Bồ Tát (Avalokitesvara)
– Hướng Bắc: Bất Không Thành Tựu Phật (Amoghasiddhi); Phật tương lai là Di-lặc (Maitreya) và Phổ Chùy Thủ Bồ Tát (Vishvapani)

Quan niệm trên chỉ xuất hiện từ khi Đại thừa Phật giáo ra đời, và càng được củng cố bởi Mật tông Tây Tạng, điều đó cho thấy sự khác biệt và phức tạp, bao hàm muôn yếu tố trong Phật giáo Tây Tạng. Đi khắp cao nguyên Thanh-Tạng, du khách sẽ gặp rất nhiều nơi thờ cúng Ngũ Phật cũng như các Phật lịch sử và chư vị Bồ Tát, bên cạnh các vị Tạng vương và Đạt Lai Lạt Ma, Ban Thiền Lạt Ma. Những sự sắp xếp trên luôn có nghiêm luật chặt chẽ mà hiếm có ai hiểu được, thậm chí phần lớn chúng ta không bao giờ hiểu rõ được mà chỉ biết chiêm bái để kính phục trí tuệ, công sức và sự sáng tạo của người xưa!

b. Statues:

Tượng Phật Tây Tạng nổi trội hơn so với bất cứ nơi nào trên thế giới bởi sự đa dạng phong phú về thể loại, mỗi tượng lại xuất xứ từ nhiều nguồn khác nhau (Ấn Độ, Nepal, Trung Quốc, bản địa), hình thái phong cách dáng ngồi tay ấn nét mặt màu sắc trang phục đều cực kỳ sinh động, toát lên những nét riêng của văn hoá Phật giáo Mật tông huyền bí. Nhìn ngắm mỗi bức tượng Tây Tạng, du khách sẽ bị thu hút bởi đôi mắt Phật không phải lúc nào cũng hiền từ nhìn xuống mà đôi khi mở to nhìn thẳng hay nhắm mắt, tuỳ thuộc theo tư thế thiền định và mỗi dáng ngồi, sau đó là những phù điêu trang trí nhiều tầng bao quanh tượng và cả chân bệ. Người Tạng còn dùng vàng, bạc, đồng, các kim loại quý và ngọc thạch, hổ phách, đá quý … để tô điểm thêm cho tượng, nâng giá trị của các bức tượng lên tầm có một không hai, trở thành tài sản vô giá của dòng Phật giáo nơi đây. Tây Tạng có những bức tượng cá biệt đến vài nghìn năm tuổi được trưng bày bên trong cung Potala. Thường các tu viện lớn và cung Potala đều cấm chụp ảnh nên cách tốt nhất có lẽ là một lần đến Tây Tạng để được chiêm ngưỡng những bảo vật truyền đời nơi đây.


(Tượng Thiên Vương chụp ở Shigatse)

c. Murals:

Murals hay các bích hoạ vẽ trên tường là hình thức nghệ thuật nổi tiếng của Tây Tạng, không chỉ mang tính trang trí làm đẹp với sắc màu cực kỳ sặc sỡ, những bức mural còn biểu hiện đức tin cổ giáo của người Tạng vào trời đất cỏ cây sông hồ núi tuyết, đôi khi là hình thức kể chuyện thuật lại tích cũ việc xưa trong quá trình gây dựng và hoằng trương tông phái, có lúc lại khắc hoạ chân dung những vị Phật, Bồ Tát, La hán, Hộ pháp, Tạng vương cũng như danh sư đạo Phật. Được biết chất liệu để vẽ tranh tường đều dùng nguồn nguyên liệu sẵn có ở mỗi địa phương, qua các công thức pha tạo màu cộng với chất liệu tự nhiên khả năng bảo vệ bức tranh theo thời gian hàng trăm năm mà không phai nhạt hay hư hại gì!


(Bức mural chụp ở Shigatse)

d. Thangkas:

Thangka cũng là các bức tranh Phật giáo bắt nguồn từ Nepal và du nhập vào Tây Tạng từ thời vua Tùng Tán Cương Bố lấy công chúa Nepal Ba Lợi Khố Cơ. Thangka Tây Tạng có thể xem là đỉnh cao của nghệ thuật tượng hình (Iconography) mà đề tài thường gặp là các bức vẽ về cuộc đời Phật Thích Ca Mâu Ni, Pháp luân, Phật Dược Sư, các tư thế toạ thiền, các vị hộ pháp và quỷ thần … Được biết Thangka được vẽ trên vải dệt sợi đay, rồi dùng mật của giống trâu Yawk trộn với bột đá để bồi mặt vải cho mịn, sau đó căng tấm vải đã bồi lên khung gỗ và dùng các loại màu khoáng hay bột vàng để vẽ. Tranh Thangka sau đó được khâu vào khung bằng lụa để dễ dàng cuộn lại, tiện lợi cho việc di chuyển và bảo quản.

Người ta tin rằng Thangka không chỉ cảm nhận được bằng mắt mà còn bằng tâm, việc chiêm bái Thangka một cách trang nghiêm sẽ giúp Phật tử nhập tâm, hoá thân với đối tượng được vẽ trong tranh, cảnh giới này có lẽ chỉ được nội truyền trong các tông phái mà không truyền cho người ngoài. Màu sắc sử dụng trong Thangka cực kỳ sinh động, sặc sỡ và chi tiết tới từng đường nét nhỏ. Chính bởi tính độc đáo của Thangka và ảnh hưởng tín ngưỡng của nó mà người đời sinh ra sùng bái và ham thích sở hữu Thangka, phá vỡ quy luật gốc của tranh là không được trao đổi mua bán! Ngày nay Thangka đã thương mại hoá, việc sao chép, vẽ lại và buôn bán trở nên phổ biến tại thị trường các nước; tuy nhiên vẻ đẹp và sự tinh xảo thì kém xa những Thangka hàng nghìn tuổi của vùng Tây Tạng. Do đó đến Tây Tạng ngắm những bức Thangka cổ đại, người ta vẫn rung động và trân trối bởi nét độc đáo đầy tính Chân Thiện Mỹ toát lên từ mỗi bức tranh.

Trường phái Thangka Tây Tạng nổi bật lên với 2 tên tuổi: Khentse Chenmu SchoolMenthang School, tác phẩm của 2 trường phái này du khách sẽ bắt gặp nhiều khi đi thăm quan hành cung Potala 🙂

Mandala: Mandala cũng là những bức hoạ hình giống như Thangka, điểm khác biệt ở đây là Mandala luôn chú trọng vào các hình vẽ vòng tròn biểu thị cái nhìn của người Tạng về thế giới và vũ trụ, trong đó hoạ hình các đức Phật hay Bồ Tát hoặc những biểu tượng Phật giáo. Điểm độc đáo ở Tây Tạng là có những mandala cỡ lớn và cực lớn bằng cát, có Mandala ba chiều mô phỏng các cung điện, và đặc biệt là các tu viện được xây theo kiến trúc Mandala như tu viện Samye (Samye Monastery) đã có dịp nhắc đến trong phần 1 về Phật giáo Tây Tạng ^^


(Bức Mandala lớn vẽ trực tiếp trên tường – ảnh chụp ở Shigatse)

e. Stupas:

Stupa (hay Chorten) xây theo dạng hình tháp, được coi như ngôi nhà lưu giữ phần hồn, cũng giống như các pho tượng được xây để lưu giữ phần xác vậy. Ở Tây Tạng, stupas có mặt ở khắp mọi nơi, không chỉ là nơi chứa tro cốt di hài mà còn chứa những vật dụng bình sinh được Đức Phật hay các môn đệ sử dụng; qua đó thể hiện sự tôn kính của người dân đến di thể của Phật.

Stupa thường gặp gồm nhiều tầng: tầng đáy thấp nhất tượng trưng cho 10 điều tâm niệm (Thập tâm hạnh), tầng tiếp theo gồm 4 bậc tượng trưng cho Tứ Diệu Đế (Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế, Đạo Đế) và Tứ Thần Túc (Dục, Tinh, Tâm Quán), phần trên nữa có dạng bầu là biểu hiện của Ngũ Căn (Tín căn, Tấn căn, Niệm căn, Ðịnh căn, Huệ căn) và Ngũ Lực (Tín lực, Tấn lực, Niệm lực, Ðịnh lực, Huệ lực), phía trên là 13 bậc thang dẫn lên cao tượng trưng cho đường tới cõi Niết bàn chỉ có thể thông qua Bát Chính Đạo, và trên cùng luôn là mặt trăng và mặt trời biểu thị sự minh triết soi sáng mọi vật.

Nổi bật phải kể đến bộ 8 stupa lớn (Eight Great Stupas) kể lại những thành tựu trong cuộc đời tu hành đắc đạo của Phật Thích Ca Mầu Ni; và các Stupa Tomb bằng vàng ròng cực lớn của các đời Đạt Lai Lạt Ma Tây Tạng lưu giữ bên trong cung Potala:

Những chi tiết thú vị khác của văn vật trong Phật giáo Tây Tạng sẽ được nhắc lại khi cùng bạn đọc đi qua những địa danh ở Tây Tạng ở bài viết tiếp theo 🙂

Tây Tạng Du Ký – Lời ngỏ

Ở Tây Tạng mùa này trời trong và cao xanh lắm …

Tôi sẽ kể chuyện này các bạn nghe, vì đến khi tôi qua 30 tuổi, tôi sợ mình hao mòn nhiệt huyết để lần theo con đường xưa mây trắng. Tôi sẽ kể chuyện này cho các bạn nghe, vì tôi sợ mai sau thời gian bôi xoá, gánh áo cơm ghì sát đất khiến tâm hồn không còn thảnh thơi đón nhận những luồng gió lành đất Phật.

Ở Tây Tạng, tháng Sáu có nắng vàng rực rỡ. Chuyện thế này … Một câu chuyện nhỏ về Tây Tạng trong tôi. Tôi không chắc Tây Tạng ngày ấy-bây giờ-mai sau có giống Tây Tạng mà tôi sắp kể không? Còn Tây Tạng như tôi biết (và tôi tin mình biết rõ): đó là mảnh đất linh thiêng hoang sơ nghìn tuổi, cũng là chốn trần ai đầy đủ thói đời. Thoảng nhớ câu thơ Bảo Sinh: Ngẫm ra trong cõi người ta – Có là Thái tử mới là Như Lai

(Phỏng theo văn phong truyện Mưa Nhã Nam của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp)

Năm tháng và những ngọn gió đi về thấm thoát đã hơn 1300 năm trên mảnh đất này. Giữa vùng bình nguyên cao hơn 5,000m so với mực nước biển, xa trong dãy Hy Mã Lạp Sơn, ẩn mình trong các thung lũng, cánh đồng, rừng cây và các hồ nước lớn, có 1 nền văn hoá huyền bí nhuốm màu sắc Phật giáo, 1 mặt trời Tây Tạng vương vấn bụi trần, 1 xã hội phức tạp thu nhỏ mà người đời còn phải tốn nhiều công khảo cứu. Người viết đã ôm ấp giấc mơ một ngày được đặt chân đến nơi này, được tận mắt nhìn và học hỏi những điều mới chỉ thấy qua sách báo tranh ảnh; giấc mơ đó thành sự thật mùa hè năm 2010 ^^


(Khung cảnh nóc nhà thế giới nhìn từ trên cao)

Hành trình về phía Tây theo chiều kim đồng hồ đi qua Thành Đô (Chengdu), Nyingchi, Lhasa, Shigatse, Tây Ninh (Xining) kéo dài 11 ngày sẽ lần lượt được gửi đến bạn đọc theo ký sự hình ảnh sau:

– Ngày 1: thăm lại Thành Đô (Tứ Xuyên), ghé Vọng Giang Lầu (Wangjianglou), uống trà ở miếu Văn Thù (Wenshu temple), tối đi xem trình diễn văn hoá Tứ Xuyên
– Ngày 2 và 3: bay Thành Đô – Nyingchi, khám phá mảnh đất ‘thiên đường xanh’ cực Đông của Tây Tạng.
– Ngày 4: rời Nyingchi đi xe buýt vào Lhasa, thủ phủ vùng U của Tây Tạng,
– Ngày 5: chu du trong Lhasa, dạo phố Barkhor, thăm Đại Chiêu Tự (Jokhang Temple) và cung điện Potala
– Ngày 6: rời Lhasa đi Shigatse – thủ phủ vùng Tsang, cũng là thành phố lớn thứ hai của Tây Tạng; ngắm nhìn hồ Yamdrok (Yamdrok-tso) từ trên cao; thăm tu viện Tashiljunpo
– Ngày 7: trở về Lhasa, thăm tu viện Sera – 1 trong 4 tu viện nổi tiếng nhất Tây Tạng; ban đêm ngắm Potala huyền ảo lúc lên đèn
– Ngày 8: đi hồ Nam-tso, hồ nước mặn lớn thứ nhì Trung Quốc, cũng là 1 trong 3 hồ lớn linh thiêng nhất của người Tạng (Yamdrok-tso, Nam-tso, Manasarovar)
– Ngày 9: rời Lhasa theo tuyến đường sắt độc đáo nhất thế giới Thanh-Tạng để đi Tây Ninh (Xining) thuộc tỉnh Thanh Hải (Qinghai)
– Ngày 10: đến Tây Ninh, thăm hồ Thanh Hải (Qinghai Lake) – hồ nước mặn lớn nhất trong đất liền của Trung Quốc
– Ngày 11: sáng đi thăm tu viện Ta’er (Ta’er Monastery) – tu viện nổi tiếng nhất Thanh Hải, tối bay về Thành Đô, kết thúc chuyến “Bắc tiến” thứ hai (Lần 1) ^^

… Lời ngỏ sơ sài của tôi đã hết, câu chuyện bắt đầu từ buổi bình minh ngày mới giữa tháng 6 …