Tây Tạng Du Ký – Ngày 11: Taer Monastery

Sáng ngày 11 chúng tôi dậy không vội vã, hôm nay là ngày cuối trên chuyến hành trình ghé thăm cao nguyên 🙂 Sau khi ăn sáng, cả đoàn rời khách sạn để đi thăm tu viện Hoàng Giáo lớn nhất Thanh Hải: Taer Monastery, nằm ở thị trấn Hoàng Trung (Huangzhong) cách Tây Ninh 26km về phía tây nam. Trời Thanh Hải hôm nay vẫn nhiều mây, không khí se se lạnh tựa như đầu thu! Xe bon bon chạy, cô hướng dẫn viên du lịch người gốc Thành Đô say sưa kể truyện về mảnh đất Thanh Hải và địa danh mà chúng tôi sắp ghé thăm …

1. Lan man lúc chạy xe:

Phật giáo Đại thừa Mật tông Tây Tạng sở dĩ đạt được những thành tựu rực rỡ như ngày nay là trải qua quá trình tôi luyện hun đúc chọn lọc nghìn đời mỗi khi nhắc đến người ta không thể quên những cái tên huyền thoại theo dòng thời gian. Trong đó nổi bật lên 1 nhà cải cách lỗi lạc, người đã có công xiển dương Phật giáo, hợp nhất Tăng chúng, vạch lại con đường tu học nghiêm cẩn, để từ đó xây dựng tông giáo lớn nhất cao nguyên Thanh-Tạng. Không ai khác chính là đại sư Tông Khách Ba (Tsongkhapa), sư tổ của phái Cách Lỗ (Gelugpa Sect). Người đời sau đến thăm Tây Tạng thường ghé những tu viện lớn như Cách Đăng (Ganden Monastery), Sắc Nhạ (Sera Monastery), Triết Phong (Deprung Monastery), Trát Thập Luân Bố (Tashilhunpo); những nơi này luôn có các gian điện thờ vinh danh ông. Bài viết hôm nay xin đưa bạn đọc xuôi ngàn cây số về lại 1 tu viện khác xa xôi hơn nằm trong vùng Thanh Hải, tu viện Tháp Nhĩ (Taer Monastery), để tìm hiểu về một giai đoạn khác của cuộc đời Tông Khách Ba – những tháng năm niên thiếu.

Đại sư Tông Khách Ba sinh năm 1357 ở vùng Tông Khách, Thanh Hải, Tây Tạng và được tin là hoá thân của trí huệ Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi (Manjusri); khi đó nhắm vào thời nhà Nguyên đang chiếm quan nội, còn Phật giáo Tây Tạng đang trong giai đoạn kết thân chính trị với hoàng tộc. Lúc đản sinh ngài Tông Khách Ba cũng có nhiều truyện dị thường được chép lại. Trong lúc đậu thai 9 tháng, rất nhiều điềm lành xuất hiện trong nhà và quanh vùng. Ngày 28/10/1357, khi hư không thanh tịnh an lành thì ngài hạ sanh, tướng mạo lọt lòng đã an nhiên phi phàm, dự báo sau này sẽ có cơ duyên hộ trì Phật pháp làm lợi chúng sinh.

Đoạn nhau thai mẹ ngài đem chôn xuống đất, từ đó mọc lên một tàng cây lớn xum xuê 10 nghìn lá mà mỗi lá đều có chữ Văn Thù, nên người quanh vùng đều rất kính trọng gọi đó là cây Cổ Lai Chiên Đàn (tức là cây có trăm ngàn tượng Phật). Hàng năm mùa thu lá rụng, người hành hương đến đây đều nhặt lá cây đem về. Du khách ngày nay đến Thanh Hải thăm tu viện Taer cũng sẽ gặp cây này trong khuôn viên. Tương truyền con số 10 nghìn lá của cây Chiên Đàn chính là khởi nguồn của việc làm 10,000 lần nghi lễ Ngũ thể nhập địa của Tăng chúng và người mộ đạo sau này 🙂

Lên 17 tuổi, năm 1373, Tông Khách Ba rời quê nhà để vào Lạp Sát (Lhasa) tu học, từ đó mở đầu giai đoạn ngài bắt đầu lãnh giáo những tinh hoa của tông phái Phật giáo Tây Tạng khi đó gồm cả Ninh Mã (Nyingma Sect), Ca Nhĩ Cư (Kagyupa Sect), và Tát Ca (Sakya Sect). Mẹ ngài khi cuối đời có viết thư nhắn gọi Tông Khách Ba về, nhưng vì đường xá xa cách, lại vướng việc học và truyền đạo mà ngài không về được. Tông Khách Ba đã hoạ hình mình trong tranh rồi gửi về cho mẹ an tâm. Đồng thời trong thư gửi mẹ, ngài viết: “… con nay ở xa không về được quê nhà, xin mẹ dựng cho con 1 bảo tháp, thân không về được nhưng lòng hướng về …”. Gia đình ông y lời đã cho xây 1 stupa ngay cạnh khuôn viên tán cây Chiên Đàn. Mẹ ông mất mà không kịp gặp mặt con, cũng chưa kịp nhìn thấy những thành tựu lớn lao mà con trai bà dùng cả cuộc đời mình gây dựng được cho Phật giáo Tây Tạng. Còn đại sư cũng viên tịch vào năm 1419. Đúng 200 năm sau ngày sinh của Tông Khách Ba, năm 1557, chúng giáo tăng ni đệ tử môn đồ của Hoàng Giáo do con trai bà kiến lập uống nước nhớ nguồn đã trở lại Thanh Hải, dựng lên trên nền đất cũ một tu viện lớn bao bọc ngoài stupa xưa. Đó chính là tu viện Tháp Nhĩ (Taer Monastery), 1 trong 6 ngôi đại tùng lâm quan trọng của Cách Lỗ tông trên toàn Tây Tạng. Tên tu viện theo tiếng Tạng có nghĩa là stupa có trước, tu viện xây sau, độc đáo duy nhất khác hẳn phong cách mọi tu viện khác (thường xây tu viện xong mới dựng các stupa bên trong). Ngoài ra do sự tích cây 10,000 lá trong tu viện mà nơi đây còn có tên là Thập Vạn Phật (Kumbum Monastery).

Nhiều trăm năm sau, du khách đến Thanh Hải vẫn được nghe kể lại câu chuyện xúc động này, lại được đưa vào khuôn viên tu viện để xem cây Chiên Đàn (vẫn xanh tốt cho đến ngày nay) và chiêm bái stupa cổ mà mẹ Tông Khách Ba đã cho dựng để gửi gắm tấm lòng của người con xa xứ, càng thêm ngưỡng mộ bề dày văn hoá tâm linh của người Tạng trải bao thế hệ vẫn rực rỡ mê đắm vượt trên thách thức của thời gian 🙂

2. Tu viện Tháp Nhĩ:

Câu chuyện trên tham khảo nguồn từ Đại tạng kinh Việt Nam, Vạn Phật Đảnh, và dựa theo lời kể của hướng dẫn viên du lịch ở Thanh Hải mà kính bút chép ghi; mọi sơ sót ngoài ý muốn mong được bạn đọc lượng thứ. Lan man kể cũng đã dài, xin gửi bạn đọc vài hình ảnh của tu viện này.

Cổng vào chánh Đông của tu viện Taer Monastery:

Bước vào khuôn viên tu viện, du khách có thể dễ dàng nhận ra sự pha trộn phong cách Hán-Tạng rõ rệt trong bố cục và màu sắc toàn viện.

Từ giữa sân lớn của tu viện có thể thấy trước mặt là tháp mái vàng của Hộ Pháp Điện (Dharma Protector Temple):

Đối diện Hộ Pháp Điện là cửa vào lớn của tu viện, nhưng không thấy du khách qua lại, có lẽ đang trong quá trình tu sửa. Đây cũng là chỗ mua vé để vào thăm các điện thờ trong khuôn viên Taer Monastery. Vé vào cửa in đẹp và bên trong là đĩa CD loại nhỏ chứa các thông tin giới thiệu về tu viện ^^

Phía bên phải của sân là Như Lai Bát Tháp (8 Great Stupas) linh thiêng của người Tạng. Người hành hương đến đây đều bái lạy các stupa này trước khi đi vào thăm các khu điện:

Đây là 1 quần thể đầy đủ cả 8 stupa trong tín ngưỡng Phật giáo Tây Tạng kể lại những dấu ấn quan trọng trong cuộc đời của Đức Phật Lịch sử Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni). Chắc hẳn bạn đọc còn nhớ, một trong những kiến thúc stupa quen thuộc này (tháp muôn cửa – stupa of many doors) đã được người Tạng áp dụng tài tình để dựng lên cả 1 tháp lớn giữa trấn Gyantse vùng Tsang và cũng có tên là Thập Vạn Phật tháp (Kumbum, Palkhor Chode Monastery)

Nhác trông màu sắc tô điểm trên stupa có thể nhận thấy các tháp này đều được sơn sửa lại thường xuyên:

Phía xa là cổng vào chánh Tây của tu viện nằm ngay dưới khối 3 stupa trắng, giờ là bãi đậu xe riêng của khách đến thăm tu viện:

Theo đường xi măng sạch sẽ, chúng tôi bắt đầu đi vào khu điện đầu tiên: Hộ Pháp Điện, nơi có mural và tượng thờ của các vị Thiên Vương và hộ pháp nhà Phật. Điện này còn được biết đến với tên Tiểu Kim Ngoã Điện (Lesser Hall of Golden Roof):

Ở cửa vào mỗi điện là máy đọc thẻ, du khách dùng chính vé vào cửa để đưa qua máy quét trước khi vào, phương thức này khá hiện đại và là lần đầu tiên chúng tôi gặp khi đi du lịch Tây Tạng 😀 Việc chụp ảnh bên trong mỗi toà điện của tu viện Taer bị cấm rất ngặt nên hầu như ít ai có ảnh chụp kiến trúc bên trong của mỗi điện (>_<). Trên bốn phía tường bao của Tiểu Kim Ngoã Điện có treo rất nhiều đầu bò, linh dương, ngựa trắng được bảo quản tốt theo thời gian, không rõ bí quyết nhồi thú của người Tạng như thế nào mà các con vật này nhìn đều thật và sống động!

Ra khỏi Tiểu Kim Ngoã Điện là đường sang khu điện thứ hai, nơi thờ phụng mẹ của ngài Tông Khách Ba mà người hành hương tìm đến để bày tỏ lòng thành kính. Trên đường du khách sẽ bắt gặp stupa Niết bàn (Stupa of Nirvana) – stupa duy nhất trong Như Lai Bát Tháp không có 4 tầng Tứ diệu đế ở đáy, tượng trưng cho sự viên mãn tu thành chánh quả:

Du khách tranh thủ chụp ảnh với kinh luân đồng lớn ngay dưới chân stupa:

Bên trong khu điện thứ 2, chúng tôi bắt gặp tảng đá dựng ngay giữa vườn, tương truyền là phiến đá mà mẹ đại sư Tông Khách Ba thường dựa vào khi có mang ngài. Trên phiến đá bóng nhẫy dính chi chít các đồng tiền xu và tiền giấy của khách thập phương, hỏi ra mới biết người dân nơi đây đã bôi rất nhiều mỡ bò Yak lên đá, nhờ thế mà tiền cúng có thể dính vào được 😀

Vì không được chụp ảnh, chúng tôi bái lạy các tượng thờ rồi nhanh chóng ra khỏi điện, điểm đến tiếp theo là Đại Kim Ngoã Điện (Great Hall of Golden Roof). Một vài hình ảnh khi đi bộ trong tu viện:

Khi đi qua khu học viện của Taer Monastery, chúng tôi bắt gặp những nhà sư còn rất trẻ trong màu áo tu đỏ thắm với túi da, điện thoại, giày tây … Được biết có tổng cộng 4 học viện lớn: Hiển Tông học viện, Mật tông học viện, Thời luân học viện, và Y học viện nằm rải rác trong khuôn viên:

Trước khi bước đến khu Đại Kim Ngoã Điện, cũng là khu vực trung tâm của toàn tu viện, du khách sẽ đi qua sân rộng của Đại Kinh Đường (Great Hall of Meditation), nơi có rất nhiều các nhà sư trẻ và người Tạng đang làm lễ ngũ thể nhập đia:

Quy mô Đại Kinh Đường cực lớn, kiến trúc nổi bật phong cách Tây Tạng với những biểu tượng cát tường Phật giáo bằng vàng rực rỡ trên nóc:

Là cờ cuộn Phật giáo (Dhvaja):

Bánh xe Pháp (Dharma Whee) và cặp hươu vàng chính giữa nóc điện:

Bên trong Đại Kinh Đường khá tối nhưng du khách vẫn cảm nhận được sự hoành tráng toát lên từ bốn phía điện, trên các kệ là hàng nghìn tượng Phật nhỏ soi sáng bởi 1000 ngọn đèn mỡ bò Yak đặt dọc theo tường thờ phụng mỗi vị. Chính giữa điện là bức tượng Quán Thế Âm Bồ Tát (Avalokitesvara) lớn, bên cạnh là tượng thờ của Ban Thiền Lạt Ma đời thứ 9 và thứ 11 – một nét tương đồng với tu viện Tashilhunpo ở Shigatse! Ra khỏi Đại Kinh Đường, du khách sẽ theo cửa hông để đi sang các khu điện đằng sau:

Phía sau Đại Kinh Đường là quần thể quan trọng nhất của tu viện Tháp Nhĩ bao gồm 4 khu vực: Bếp lớn (The Great Kitchens) bên trong có 3 vạc đồng để nấu ăn cho Tăng chúng — gian này không mở cửa cho du khách tham quan, điện thờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni), điện thờ Phật tương lai Di Lặc Bồ Tát (Future Buddha Maitreya), và quan trọng nhất chính là Đại Kim Ngoã Điện (Great Hall of the Golden Roof) ^^ 4 khu này quần tụ xung quanh cây Cổ Lai Chiên Đàn nằm ngay trước Đại Kim Ngoã Điện. Du khách ai cũng thích thú không gian rực rỡ của khu vực này nhưng đáng tiếc không ai được chụp ảnh 😦

Cây Cổ Lai Chiên Đàn vẫn xanh um giữa sân và được quây bảo vệ bởi hàng rào gỗ thấp, người Tây Tạng làm lễ bái lạy ở đây rất đông. Dọc theo các bức tường trong khuôn viên là những chiếc kinh luân cổ kích thước to như người thật quay trên những giá gỗ đen nhánh bóng nhẫy dấu tay. Phía trên nóc Đại Kim Ngoã Điện là mái vàng rực rỡ, bên trong điện là stupa mà mẹ Tông Khách Ba đã xây cho ngài năm xưa. Qua thời gian được trùng tu nâng cấp, tháp nay phủ bạc cao đến 11m. Bước vào trong điện, chúng tôi trật tự dò từng bước đến dưới chân stupa để ngẩng đầu chiêm bái Phật tích quý giá nhất Thanh Hải, trong đầu vẫn ngân nga câu nói của người khai tông lập phái Hoàng Mạo Giáo viết thư gửi mẹ … “thân không về được, nhưng lòng hướng về” … vậy mà đã hơn 500 năm rồi đấy! Cầm lòng không chụp ảnh, chúng tôi rời khỏi Đại Kim Ngoã Điện, tiếp tục con đường leo ngược dốc của tu viện Taer đi sang khu tiếp theo.

Tuy xây dọc theo sườn núi, tu viện Taer không quá dốc, đường đá rộng rãi và thoải mái, chính phủ Trung Quốc chắc đã đổ vào đây rất nhiều tiền để tôn tạo và quy hoạch qua nhiều thời kỳ:

Khu điện cuối cùng chúng tôi ghé thăm thực ra là gian trưng bày độc đáo chỉ có ở Thanh Hải: tượng làm bằng bơ bò Yak (Hall of Butter Sculptures), vốn là 1 nghệ thuật tự hào của các nghệ nhân tăng sĩ trong tu viện Taer nổi danh toàn vùng Thanh-Tạng từ thế kỷ 16 đến nay:

Được biết các nghệ nhân này đều phải bỏ ra nhiều tháng công sức để nhào nặn và làm thành các bức tượng để kịp tham dự Tibetan Butter Sculpture Festival (diễn ra trung tuần tháng 2 hàng năm) và tuỳ theo chủ đề của mỗi năm mà sẽ có những tượng hay bức hoạ dạng lớn được làm, ví dụ làm tượng đại sư Tông Khách Ba, tượng Đạt Lai Lạt Ma thứ 5, hay câu chuyện Văn Thành công chúa vào Tây Tạng … Chủ đề năm nay là Phật tương lai Di Lặc (Future Buddha Maitreya). Vì không được chụp ảnh trong gian điện nên mượn tạm 1 tấm trên mạng để bạn đọc hình dung rõ ràng hơn về công phu và tầm vóc các bức tượng làm hoàn toàn từ bơ bò Yak với độ chinh xác và tinh tế bất ngờ:

Ngay phía sau bức tượng này sẽ là bức tượng đã tham gia dự thi năm ngoái 😀 cả 2 bức tượng đều đươc đặt trong lồng kính giữ lạnh khi chúng tôi đến thăm, để chống chọi với cái nắng ngày hè có thể làm chảy các tác phẩm.

Rời khỏi Sculpture Hall, chúng tôi theo con dốc thoải trở ra ngoài cổng, tranh thủ ghi lại những khoảng khắc trước khi rời tu viện Tháp Nhĩ:

Và những mái vàng lấp lánh bên trong tu viện:

Tạm biệt tu viện Tháp Nhĩ và câu chuyện về tuổi thơ của đại sư Tông Khách Ba, chúng tôi ai cũng tấm tắc vì đã có dịp hiểu thêm những điểm độc đáo của vùng Thanh Hải mà trước giờ ít nghe nhắc đến 🙂 Ra đến cổng chánh Đông tu viện, chúng tôi tranh thủ đi dạo nhâm nhi món khoai nướng trước khi theo xe nhắm hướng sân bay trực chỉ:

Từ sân bay Tây Ninh, chúng tôi đáp chuyến bay chiều đi Thành Đô và ngay trong đêm đó bay ra khỏi Tứ Xuyên, tạm biệt Trung Hoa và cũng là kết thúc chuyến đi khám phá phía Tây lần này 🙂 Ngồi trên máy bay chúng tôi vẫn còn ngâm ngợi mãi, nhìn biểu tượng in trên tờ tiền 50 RMB mà không khỏi bâng khuâng về 1 miền đất vừa thật gần không thể tách rời vừa xa xôi như là ảo mộng …

Chuyến bay đêm ai cũng đã say ngủ, nhưng tôi biết có những đôi mắt vẫn mở chong chong nhìn đèn tín hiệu chớp ngoài cánh máy bay trong mây mù giữa lưng chừng trời, hay bởi lòng vẫn còn đau đáu về những điều tuyệt diệu được thấy qua ở phía dưới kia … cao vài nghìn mét trên mặt nước biển, xa trong dãy Hi Mã Lạp Sơn, sâu giữa những hồ nước lớn và rừng cây … một bức tranh Phật giáo tuyệt luân toàn cảnh vẫn trường tồn qua không thời gian … Bài viết ngày 11 đến đây là kết thúc, xin hẹn bạn đọc trong bài cuối – Khúc vĩ thanh Tây Tạng.

Tây Tạng Du Ký – Ngày 5: Văn vật Phật giáo Tây Tạng

Trở lại với bạn đọc trong bài viết ngày 5 ^^

2. Văn vật trong Phật giáo Tây Tạng:

Phật giáo Tây Tạng cuốn hút với nhân loại không chỉ bởi những tinh hoa pha trộn giữa Đại thừa phái (Mahayana), Mật tông (Tantrayana), và tôn giáo cổ Tây Tạng (với Bon giáo là điển hình) mà còn bởi những văn vật để lại cho đời. Có lẽ không nơi đâu trên trái đất này lại quy tụ đầy đủ và nhiều di chỉ Phật giáo như Tây Tạng, từ đền chùa thành quách đại viện tiểu viện cho đến tượng Phật, kinh sách luật tuyển, cờ phướn; rồi đồ dùng trong lễ bái, tán tụng, cúng dường, trì nghiệm, hộ ma, khuyến đạo … dường như không thống kê nào kể xiết! Trong bài viết ngắn ngủi này, người viết không đủ khả năng và cũng không có tham vọng tổng kết hết những tinh tuý của nơi đây, chỉ muốn dành đôi dòng nhắc đến những văn vật thường gặp trên đường khám phá Tây Tạng 🙂

a. Đại kỳ ngũ sắc:

Đi thăm Tây Tạng nói riêng và các quần thể Phật giáo nói chung, du khách hay bắt gặp các cờ phướn 5 màu tung bay trong gió. Nếu để ý kĩ, cờ ngũ sắc Tây Tạng có 5 màu (trắng, đỏ, lục, vàng, lam) hơi khác so với lá cờ Phật giáo (trắng, đỏ, cam, vàng, lam). Một trong các lý do có thể giải thích là: lá cờ Phật giáo chính thức ra đời năm 1889, còn Phật giáo Tây Tạng mà ảnh hưởng bắt nguồn từ Ấn Độ giáo thì đã có từ lâu đời, trải qua thời gian sẽ xuất hiện vài sai khác, tuy nhiên điều này không làm thay đổi ý nghĩa biểu trưng.

Số 5 không chỉ tượng trưng cho Ngũ Hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) tương sinh tương khắc làm nên vạn vật, còn ứng với Ngũ Trí của Mật tông miêu tả về trí của con người (Pháp giới trí, Đại viên kínha trí, Bình đẳng tính trí, Diệu quan sát trí, Bình đẳng tác trí), đồng thời hợp với Ngũ Uẩn (Sắc, Thụ, Tưởng, Hành, Thức) là 5 yếu tố tạo thành thân tâm, và là Ngũ Bộ Chú – nghi thức trì niệm của Mật Giáo (Tịnh Pháp Giới, Văn Thù Nhất Tự Hộ Thân, Lục Tự Đại Minh, Chuẩn Đề Cửu Thánh, và Nhất Tự Kim Luân Phật Đỉnh); nhưng trên hết là biểu thị sức mạnh và sự thống nhất giữa Ngũ PhươngNgũ Phật:

Ngũ Phật (Five Wisdom Buddhas) có thể coi là biểu hiện siêu việt nhất trong thế gian, các vị này là thầy của các Bồ Tát. Đồng thời, trong mỗi thời đại loài người, các vị lại hoá thân thành Phật lịch sử – có hình dạng người sống trên thế gian. Trong thời đại chúng ta, vị Phật lịch sử đó chính là Phật Thích Ca Mầu Ni (Shakyamuni Buddha), còn vị Phật được tin rằng sẽ xuất hiện trong tương lai (Future Buddha) là Phật Di Lặc (Maitreya Buddha). Vì thế mỗi khi nhắc đến Ngũ Phương Phật, người ta sẽ nhắc đến vị Phật lịch sử và vị Bồ Tát tương ứng:

– Trung ương: Đại Nhật Như Lai (Tathagata); Phật lịch sử là Ca-la-ca-tôn-đại (Krakuccanda) và Phổ Hiền Bồ Tát (Samantabhadra)
– Hướng Đông: Bất Động Như Lai (Aksobhya); Phật lịch sử là Ka-na-ca-mâu-ni (Kanakamuni) và Kim Cương Bồ Tát (Vajrapani)
– Hướng Nam: Bảo Sinh Phật (Ratnasambhava); Phật lịch sử là Ca-diếp (Kasyapa) và Bảo Thủ Bồ Tát (Ratnapani)
– Hướng Tây: Di Đà Phật (Amitabha); Phật lịch sử là Thích-ca-mâu-ni (Shakyamuni) và Quán Thế Âm Bồ Tát (Avalokitesvara)
– Hướng Bắc: Bất Không Thành Tựu Phật (Amoghasiddhi); Phật tương lai là Di-lặc (Maitreya) và Phổ Chùy Thủ Bồ Tát (Vishvapani)

Quan niệm trên chỉ xuất hiện từ khi Đại thừa Phật giáo ra đời, và càng được củng cố bởi Mật tông Tây Tạng, điều đó cho thấy sự khác biệt và phức tạp, bao hàm muôn yếu tố trong Phật giáo Tây Tạng. Đi khắp cao nguyên Thanh-Tạng, du khách sẽ gặp rất nhiều nơi thờ cúng Ngũ Phật cũng như các Phật lịch sử và chư vị Bồ Tát, bên cạnh các vị Tạng vương và Đạt Lai Lạt Ma, Ban Thiền Lạt Ma. Những sự sắp xếp trên luôn có nghiêm luật chặt chẽ mà hiếm có ai hiểu được, thậm chí phần lớn chúng ta không bao giờ hiểu rõ được mà chỉ biết chiêm bái để kính phục trí tuệ, công sức và sự sáng tạo của người xưa!

b. Statues:

Tượng Phật Tây Tạng nổi trội hơn so với bất cứ nơi nào trên thế giới bởi sự đa dạng phong phú về thể loại, mỗi tượng lại xuất xứ từ nhiều nguồn khác nhau (Ấn Độ, Nepal, Trung Quốc, bản địa), hình thái phong cách dáng ngồi tay ấn nét mặt màu sắc trang phục đều cực kỳ sinh động, toát lên những nét riêng của văn hoá Phật giáo Mật tông huyền bí. Nhìn ngắm mỗi bức tượng Tây Tạng, du khách sẽ bị thu hút bởi đôi mắt Phật không phải lúc nào cũng hiền từ nhìn xuống mà đôi khi mở to nhìn thẳng hay nhắm mắt, tuỳ thuộc theo tư thế thiền định và mỗi dáng ngồi, sau đó là những phù điêu trang trí nhiều tầng bao quanh tượng và cả chân bệ. Người Tạng còn dùng vàng, bạc, đồng, các kim loại quý và ngọc thạch, hổ phách, đá quý … để tô điểm thêm cho tượng, nâng giá trị của các bức tượng lên tầm có một không hai, trở thành tài sản vô giá của dòng Phật giáo nơi đây. Tây Tạng có những bức tượng cá biệt đến vài nghìn năm tuổi được trưng bày bên trong cung Potala. Thường các tu viện lớn và cung Potala đều cấm chụp ảnh nên cách tốt nhất có lẽ là một lần đến Tây Tạng để được chiêm ngưỡng những bảo vật truyền đời nơi đây.


(Tượng Thiên Vương chụp ở Shigatse)

c. Murals:

Murals hay các bích hoạ vẽ trên tường là hình thức nghệ thuật nổi tiếng của Tây Tạng, không chỉ mang tính trang trí làm đẹp với sắc màu cực kỳ sặc sỡ, những bức mural còn biểu hiện đức tin cổ giáo của người Tạng vào trời đất cỏ cây sông hồ núi tuyết, đôi khi là hình thức kể chuyện thuật lại tích cũ việc xưa trong quá trình gây dựng và hoằng trương tông phái, có lúc lại khắc hoạ chân dung những vị Phật, Bồ Tát, La hán, Hộ pháp, Tạng vương cũng như danh sư đạo Phật. Được biết chất liệu để vẽ tranh tường đều dùng nguồn nguyên liệu sẵn có ở mỗi địa phương, qua các công thức pha tạo màu cộng với chất liệu tự nhiên khả năng bảo vệ bức tranh theo thời gian hàng trăm năm mà không phai nhạt hay hư hại gì!


(Bức mural chụp ở Shigatse)

d. Thangkas:

Thangka cũng là các bức tranh Phật giáo bắt nguồn từ Nepal và du nhập vào Tây Tạng từ thời vua Tùng Tán Cương Bố lấy công chúa Nepal Ba Lợi Khố Cơ. Thangka Tây Tạng có thể xem là đỉnh cao của nghệ thuật tượng hình (Iconography) mà đề tài thường gặp là các bức vẽ về cuộc đời Phật Thích Ca Mâu Ni, Pháp luân, Phật Dược Sư, các tư thế toạ thiền, các vị hộ pháp và quỷ thần … Được biết Thangka được vẽ trên vải dệt sợi đay, rồi dùng mật của giống trâu Yawk trộn với bột đá để bồi mặt vải cho mịn, sau đó căng tấm vải đã bồi lên khung gỗ và dùng các loại màu khoáng hay bột vàng để vẽ. Tranh Thangka sau đó được khâu vào khung bằng lụa để dễ dàng cuộn lại, tiện lợi cho việc di chuyển và bảo quản.

Người ta tin rằng Thangka không chỉ cảm nhận được bằng mắt mà còn bằng tâm, việc chiêm bái Thangka một cách trang nghiêm sẽ giúp Phật tử nhập tâm, hoá thân với đối tượng được vẽ trong tranh, cảnh giới này có lẽ chỉ được nội truyền trong các tông phái mà không truyền cho người ngoài. Màu sắc sử dụng trong Thangka cực kỳ sinh động, sặc sỡ và chi tiết tới từng đường nét nhỏ. Chính bởi tính độc đáo của Thangka và ảnh hưởng tín ngưỡng của nó mà người đời sinh ra sùng bái và ham thích sở hữu Thangka, phá vỡ quy luật gốc của tranh là không được trao đổi mua bán! Ngày nay Thangka đã thương mại hoá, việc sao chép, vẽ lại và buôn bán trở nên phổ biến tại thị trường các nước; tuy nhiên vẻ đẹp và sự tinh xảo thì kém xa những Thangka hàng nghìn tuổi của vùng Tây Tạng. Do đó đến Tây Tạng ngắm những bức Thangka cổ đại, người ta vẫn rung động và trân trối bởi nét độc đáo đầy tính Chân Thiện Mỹ toát lên từ mỗi bức tranh.

Trường phái Thangka Tây Tạng nổi bật lên với 2 tên tuổi: Khentse Chenmu SchoolMenthang School, tác phẩm của 2 trường phái này du khách sẽ bắt gặp nhiều khi đi thăm quan hành cung Potala 🙂

Mandala: Mandala cũng là những bức hoạ hình giống như Thangka, điểm khác biệt ở đây là Mandala luôn chú trọng vào các hình vẽ vòng tròn biểu thị cái nhìn của người Tạng về thế giới và vũ trụ, trong đó hoạ hình các đức Phật hay Bồ Tát hoặc những biểu tượng Phật giáo. Điểm độc đáo ở Tây Tạng là có những mandala cỡ lớn và cực lớn bằng cát, có Mandala ba chiều mô phỏng các cung điện, và đặc biệt là các tu viện được xây theo kiến trúc Mandala như tu viện Samye (Samye Monastery) đã có dịp nhắc đến trong phần 1 về Phật giáo Tây Tạng ^^


(Bức Mandala lớn vẽ trực tiếp trên tường – ảnh chụp ở Shigatse)

e. Stupas:

Stupa (hay Chorten) xây theo dạng hình tháp, được coi như ngôi nhà lưu giữ phần hồn, cũng giống như các pho tượng được xây để lưu giữ phần xác vậy. Ở Tây Tạng, stupas có mặt ở khắp mọi nơi, không chỉ là nơi chứa tro cốt di hài mà còn chứa những vật dụng bình sinh được Đức Phật hay các môn đệ sử dụng; qua đó thể hiện sự tôn kính của người dân đến di thể của Phật.

Stupa thường gặp gồm nhiều tầng: tầng đáy thấp nhất tượng trưng cho 10 điều tâm niệm (Thập tâm hạnh), tầng tiếp theo gồm 4 bậc tượng trưng cho Tứ Diệu Đế (Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế, Đạo Đế) và Tứ Thần Túc (Dục, Tinh, Tâm Quán), phần trên nữa có dạng bầu là biểu hiện của Ngũ Căn (Tín căn, Tấn căn, Niệm căn, Ðịnh căn, Huệ căn) và Ngũ Lực (Tín lực, Tấn lực, Niệm lực, Ðịnh lực, Huệ lực), phía trên là 13 bậc thang dẫn lên cao tượng trưng cho đường tới cõi Niết bàn chỉ có thể thông qua Bát Chính Đạo, và trên cùng luôn là mặt trăng và mặt trời biểu thị sự minh triết soi sáng mọi vật.

Nổi bật phải kể đến bộ 8 stupa lớn (Eight Great Stupas) kể lại những thành tựu trong cuộc đời tu hành đắc đạo của Phật Thích Ca Mầu Ni; và các Stupa Tomb bằng vàng ròng cực lớn của các đời Đạt Lai Lạt Ma Tây Tạng lưu giữ bên trong cung Potala:

Những chi tiết thú vị khác của văn vật trong Phật giáo Tây Tạng sẽ được nhắc lại khi cùng bạn đọc đi qua những địa danh ở Tây Tạng ở bài viết tiếp theo 🙂