Kashmir – Nơi bình minh yên tĩnh (Lời bạt)

Chúng tôi cởi bớt áo len, tạm biệt cái lạnh tê người của Ladakh để đáp chuyến bay về lại Delhi nắng cháy. Chuyến bay dài chưa đầy 55′ chứa đựng nhiều điều bất ngờ hơn tôi nghĩ. Ngồi cạnh tôi là một người đàn ông đứng tuổi điềm đạm và có khuôn mặt đặc trưng của người Ladakhi. Sau khi chào hỏi và được biết tôi từ Việt Nam đến, ông rất bất ngờ và dành toàn bộ thời gian trên chuyến bay để chuyện trò và kể cho tôi nghe những kỷ niệm “nhỏ” mà ông đã có với người Việt Nam …

Năm 1984, khi đó ông còn là đại diện ngoại giao của vùng Ladakh, bang Jammu & Kashmir, ông tiếp xúc với người Việt Nam lần đầu tiên (ông phát âm rất chuẩn cái tên Việt Nam này), đó là cố bộ trưởng bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch. Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch khi đó cùng một số tướng lĩnh cao cấp có chuyến thăm chính thức đến Ấn Độ và dành 4 ngày để đi quanh khu vực Kashmir, ông là trưởng phái đoàn đón tiếp và là lần đầu chính thức đón người Việt Nam đến Ladakh …

Bố của ông trước đây là đại sứ Ấn Độ tại Mông Cổ, chị gái ông học tiếng Nga ở thủ đô Ulanbato. Trong 1 lần đi thăm chị mình, ông được 1 người bạn của chị ông nấu mời 1 bữa cơm trưa. Đó là 1 lưu học sinh Việt Nam tại Mông Cổ mà ông chỉ còn nhớ được tên là “Hạnh”, cũng là lần đầu ông được ăn món ăn Việt Nam mà ông ấn tượng đến tận bây giờ.

Mới đó mà đã gần 28 năm … Ông nói với tôi sản vật đến từ Việt Nam gần gũi nhất với gia đình ông bây giờ là cá basa! Cá basa được được bầy bán rất nhiều ở các chợ vùng Ladakh và được người dân ở đây ưa chuộng bởi giá cả hợp lý và chất lượng hảo hạng 🙂

Chúng tôi tiếp tục trao đổi về những chuyện thường nhật, về gia đình và những điều cá nhân. Lúc máy bay sắp hạ cánh, ông trầm ngâm nói 1 điều làm tôi ấn tượng mãi: thế hệ của tôi và con trai con gái ông rất may mắn! Đúng thế, tôi thấy mình may mắn được sinh ra trong 1 thành phố anh hùng giữa 1 đất nước anh hùng, giống như con cái ông vậy. Tôi lớn lên khi tiếng súng gươm đã lui vào quá khứ, và chỉ được nghe về Kashmir cùng những chiến sự xung đột giữa Ấn Độ – Pakistan nhưng chưa bao giờ thực sự biết về miền đất đó. Hôm nay tôi xin dành bài viết này để viết về 1 góc nhỏ của Kashmir – vùng Ladakh – nơi đây, tôi biết rằng, bình minh yên tĩnh ^^

=====

Một vài hình ảnh giới thiệu về vùng Ladakh, tháng 5 năm 2011:

Những ngọn núi cao cheo leo …

… hay những thung lũng xanh mùa tuyết tan

… Cuộc sống thanh bình dưới chân dãy Karakoram:

… Và đặc biệt những di chỉ Phật giáo hiện hữu khắp nơi nơi:

… Một Ấn Độ rất khác so với những gì tôi đã hình dung!

Tây Tạng Du Ký – Ngày 11: Taer Monastery

Sáng ngày 11 chúng tôi dậy không vội vã, hôm nay là ngày cuối trên chuyến hành trình ghé thăm cao nguyên 🙂 Sau khi ăn sáng, cả đoàn rời khách sạn để đi thăm tu viện Hoàng Giáo lớn nhất Thanh Hải: Taer Monastery, nằm ở thị trấn Hoàng Trung (Huangzhong) cách Tây Ninh 26km về phía tây nam. Trời Thanh Hải hôm nay vẫn nhiều mây, không khí se se lạnh tựa như đầu thu! Xe bon bon chạy, cô hướng dẫn viên du lịch người gốc Thành Đô say sưa kể truyện về mảnh đất Thanh Hải và địa danh mà chúng tôi sắp ghé thăm …

1. Lan man lúc chạy xe:

Phật giáo Đại thừa Mật tông Tây Tạng sở dĩ đạt được những thành tựu rực rỡ như ngày nay là trải qua quá trình tôi luyện hun đúc chọn lọc nghìn đời mỗi khi nhắc đến người ta không thể quên những cái tên huyền thoại theo dòng thời gian. Trong đó nổi bật lên 1 nhà cải cách lỗi lạc, người đã có công xiển dương Phật giáo, hợp nhất Tăng chúng, vạch lại con đường tu học nghiêm cẩn, để từ đó xây dựng tông giáo lớn nhất cao nguyên Thanh-Tạng. Không ai khác chính là đại sư Tông Khách Ba (Tsongkhapa), sư tổ của phái Cách Lỗ (Gelugpa Sect). Người đời sau đến thăm Tây Tạng thường ghé những tu viện lớn như Cách Đăng (Ganden Monastery), Sắc Nhạ (Sera Monastery), Triết Phong (Deprung Monastery), Trát Thập Luân Bố (Tashilhunpo); những nơi này luôn có các gian điện thờ vinh danh ông. Bài viết hôm nay xin đưa bạn đọc xuôi ngàn cây số về lại 1 tu viện khác xa xôi hơn nằm trong vùng Thanh Hải, tu viện Tháp Nhĩ (Taer Monastery), để tìm hiểu về một giai đoạn khác của cuộc đời Tông Khách Ba – những tháng năm niên thiếu.

Đại sư Tông Khách Ba sinh năm 1357 ở vùng Tông Khách, Thanh Hải, Tây Tạng và được tin là hoá thân của trí huệ Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi (Manjusri); khi đó nhắm vào thời nhà Nguyên đang chiếm quan nội, còn Phật giáo Tây Tạng đang trong giai đoạn kết thân chính trị với hoàng tộc. Lúc đản sinh ngài Tông Khách Ba cũng có nhiều truyện dị thường được chép lại. Trong lúc đậu thai 9 tháng, rất nhiều điềm lành xuất hiện trong nhà và quanh vùng. Ngày 28/10/1357, khi hư không thanh tịnh an lành thì ngài hạ sanh, tướng mạo lọt lòng đã an nhiên phi phàm, dự báo sau này sẽ có cơ duyên hộ trì Phật pháp làm lợi chúng sinh.

Đoạn nhau thai mẹ ngài đem chôn xuống đất, từ đó mọc lên một tàng cây lớn xum xuê 10 nghìn lá mà mỗi lá đều có chữ Văn Thù, nên người quanh vùng đều rất kính trọng gọi đó là cây Cổ Lai Chiên Đàn (tức là cây có trăm ngàn tượng Phật). Hàng năm mùa thu lá rụng, người hành hương đến đây đều nhặt lá cây đem về. Du khách ngày nay đến Thanh Hải thăm tu viện Taer cũng sẽ gặp cây này trong khuôn viên. Tương truyền con số 10 nghìn lá của cây Chiên Đàn chính là khởi nguồn của việc làm 10,000 lần nghi lễ Ngũ thể nhập địa của Tăng chúng và người mộ đạo sau này 🙂

Lên 17 tuổi, năm 1373, Tông Khách Ba rời quê nhà để vào Lạp Sát (Lhasa) tu học, từ đó mở đầu giai đoạn ngài bắt đầu lãnh giáo những tinh hoa của tông phái Phật giáo Tây Tạng khi đó gồm cả Ninh Mã (Nyingma Sect), Ca Nhĩ Cư (Kagyupa Sect), và Tát Ca (Sakya Sect). Mẹ ngài khi cuối đời có viết thư nhắn gọi Tông Khách Ba về, nhưng vì đường xá xa cách, lại vướng việc học và truyền đạo mà ngài không về được. Tông Khách Ba đã hoạ hình mình trong tranh rồi gửi về cho mẹ an tâm. Đồng thời trong thư gửi mẹ, ngài viết: “… con nay ở xa không về được quê nhà, xin mẹ dựng cho con 1 bảo tháp, thân không về được nhưng lòng hướng về …”. Gia đình ông y lời đã cho xây 1 stupa ngay cạnh khuôn viên tán cây Chiên Đàn. Mẹ ông mất mà không kịp gặp mặt con, cũng chưa kịp nhìn thấy những thành tựu lớn lao mà con trai bà dùng cả cuộc đời mình gây dựng được cho Phật giáo Tây Tạng. Còn đại sư cũng viên tịch vào năm 1419. Đúng 200 năm sau ngày sinh của Tông Khách Ba, năm 1557, chúng giáo tăng ni đệ tử môn đồ của Hoàng Giáo do con trai bà kiến lập uống nước nhớ nguồn đã trở lại Thanh Hải, dựng lên trên nền đất cũ một tu viện lớn bao bọc ngoài stupa xưa. Đó chính là tu viện Tháp Nhĩ (Taer Monastery), 1 trong 6 ngôi đại tùng lâm quan trọng của Cách Lỗ tông trên toàn Tây Tạng. Tên tu viện theo tiếng Tạng có nghĩa là stupa có trước, tu viện xây sau, độc đáo duy nhất khác hẳn phong cách mọi tu viện khác (thường xây tu viện xong mới dựng các stupa bên trong). Ngoài ra do sự tích cây 10,000 lá trong tu viện mà nơi đây còn có tên là Thập Vạn Phật (Kumbum Monastery).

Nhiều trăm năm sau, du khách đến Thanh Hải vẫn được nghe kể lại câu chuyện xúc động này, lại được đưa vào khuôn viên tu viện để xem cây Chiên Đàn (vẫn xanh tốt cho đến ngày nay) và chiêm bái stupa cổ mà mẹ Tông Khách Ba đã cho dựng để gửi gắm tấm lòng của người con xa xứ, càng thêm ngưỡng mộ bề dày văn hoá tâm linh của người Tạng trải bao thế hệ vẫn rực rỡ mê đắm vượt trên thách thức của thời gian 🙂

2. Tu viện Tháp Nhĩ:

Câu chuyện trên tham khảo nguồn từ Đại tạng kinh Việt Nam, Vạn Phật Đảnh, và dựa theo lời kể của hướng dẫn viên du lịch ở Thanh Hải mà kính bút chép ghi; mọi sơ sót ngoài ý muốn mong được bạn đọc lượng thứ. Lan man kể cũng đã dài, xin gửi bạn đọc vài hình ảnh của tu viện này.

Cổng vào chánh Đông của tu viện Taer Monastery:

Bước vào khuôn viên tu viện, du khách có thể dễ dàng nhận ra sự pha trộn phong cách Hán-Tạng rõ rệt trong bố cục và màu sắc toàn viện.

Từ giữa sân lớn của tu viện có thể thấy trước mặt là tháp mái vàng của Hộ Pháp Điện (Dharma Protector Temple):

Đối diện Hộ Pháp Điện là cửa vào lớn của tu viện, nhưng không thấy du khách qua lại, có lẽ đang trong quá trình tu sửa. Đây cũng là chỗ mua vé để vào thăm các điện thờ trong khuôn viên Taer Monastery. Vé vào cửa in đẹp và bên trong là đĩa CD loại nhỏ chứa các thông tin giới thiệu về tu viện ^^

Phía bên phải của sân là Như Lai Bát Tháp (8 Great Stupas) linh thiêng của người Tạng. Người hành hương đến đây đều bái lạy các stupa này trước khi đi vào thăm các khu điện:

Đây là 1 quần thể đầy đủ cả 8 stupa trong tín ngưỡng Phật giáo Tây Tạng kể lại những dấu ấn quan trọng trong cuộc đời của Đức Phật Lịch sử Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni). Chắc hẳn bạn đọc còn nhớ, một trong những kiến thúc stupa quen thuộc này (tháp muôn cửa – stupa of many doors) đã được người Tạng áp dụng tài tình để dựng lên cả 1 tháp lớn giữa trấn Gyantse vùng Tsang và cũng có tên là Thập Vạn Phật tháp (Kumbum, Palkhor Chode Monastery)

Nhác trông màu sắc tô điểm trên stupa có thể nhận thấy các tháp này đều được sơn sửa lại thường xuyên:

Phía xa là cổng vào chánh Tây của tu viện nằm ngay dưới khối 3 stupa trắng, giờ là bãi đậu xe riêng của khách đến thăm tu viện:

Theo đường xi măng sạch sẽ, chúng tôi bắt đầu đi vào khu điện đầu tiên: Hộ Pháp Điện, nơi có mural và tượng thờ của các vị Thiên Vương và hộ pháp nhà Phật. Điện này còn được biết đến với tên Tiểu Kim Ngoã Điện (Lesser Hall of Golden Roof):

Ở cửa vào mỗi điện là máy đọc thẻ, du khách dùng chính vé vào cửa để đưa qua máy quét trước khi vào, phương thức này khá hiện đại và là lần đầu tiên chúng tôi gặp khi đi du lịch Tây Tạng 😀 Việc chụp ảnh bên trong mỗi toà điện của tu viện Taer bị cấm rất ngặt nên hầu như ít ai có ảnh chụp kiến trúc bên trong của mỗi điện (>_<). Trên bốn phía tường bao của Tiểu Kim Ngoã Điện có treo rất nhiều đầu bò, linh dương, ngựa trắng được bảo quản tốt theo thời gian, không rõ bí quyết nhồi thú của người Tạng như thế nào mà các con vật này nhìn đều thật và sống động!

Ra khỏi Tiểu Kim Ngoã Điện là đường sang khu điện thứ hai, nơi thờ phụng mẹ của ngài Tông Khách Ba mà người hành hương tìm đến để bày tỏ lòng thành kính. Trên đường du khách sẽ bắt gặp stupa Niết bàn (Stupa of Nirvana) – stupa duy nhất trong Như Lai Bát Tháp không có 4 tầng Tứ diệu đế ở đáy, tượng trưng cho sự viên mãn tu thành chánh quả:

Du khách tranh thủ chụp ảnh với kinh luân đồng lớn ngay dưới chân stupa:

Bên trong khu điện thứ 2, chúng tôi bắt gặp tảng đá dựng ngay giữa vườn, tương truyền là phiến đá mà mẹ đại sư Tông Khách Ba thường dựa vào khi có mang ngài. Trên phiến đá bóng nhẫy dính chi chít các đồng tiền xu và tiền giấy của khách thập phương, hỏi ra mới biết người dân nơi đây đã bôi rất nhiều mỡ bò Yak lên đá, nhờ thế mà tiền cúng có thể dính vào được 😀

Vì không được chụp ảnh, chúng tôi bái lạy các tượng thờ rồi nhanh chóng ra khỏi điện, điểm đến tiếp theo là Đại Kim Ngoã Điện (Great Hall of Golden Roof). Một vài hình ảnh khi đi bộ trong tu viện:

Khi đi qua khu học viện của Taer Monastery, chúng tôi bắt gặp những nhà sư còn rất trẻ trong màu áo tu đỏ thắm với túi da, điện thoại, giày tây … Được biết có tổng cộng 4 học viện lớn: Hiển Tông học viện, Mật tông học viện, Thời luân học viện, và Y học viện nằm rải rác trong khuôn viên:

Trước khi bước đến khu Đại Kim Ngoã Điện, cũng là khu vực trung tâm của toàn tu viện, du khách sẽ đi qua sân rộng của Đại Kinh Đường (Great Hall of Meditation), nơi có rất nhiều các nhà sư trẻ và người Tạng đang làm lễ ngũ thể nhập đia:

Quy mô Đại Kinh Đường cực lớn, kiến trúc nổi bật phong cách Tây Tạng với những biểu tượng cát tường Phật giáo bằng vàng rực rỡ trên nóc:

Là cờ cuộn Phật giáo (Dhvaja):

Bánh xe Pháp (Dharma Whee) và cặp hươu vàng chính giữa nóc điện:

Bên trong Đại Kinh Đường khá tối nhưng du khách vẫn cảm nhận được sự hoành tráng toát lên từ bốn phía điện, trên các kệ là hàng nghìn tượng Phật nhỏ soi sáng bởi 1000 ngọn đèn mỡ bò Yak đặt dọc theo tường thờ phụng mỗi vị. Chính giữa điện là bức tượng Quán Thế Âm Bồ Tát (Avalokitesvara) lớn, bên cạnh là tượng thờ của Ban Thiền Lạt Ma đời thứ 9 và thứ 11 – một nét tương đồng với tu viện Tashilhunpo ở Shigatse! Ra khỏi Đại Kinh Đường, du khách sẽ theo cửa hông để đi sang các khu điện đằng sau:

Phía sau Đại Kinh Đường là quần thể quan trọng nhất của tu viện Tháp Nhĩ bao gồm 4 khu vực: Bếp lớn (The Great Kitchens) bên trong có 3 vạc đồng để nấu ăn cho Tăng chúng — gian này không mở cửa cho du khách tham quan, điện thờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni), điện thờ Phật tương lai Di Lặc Bồ Tát (Future Buddha Maitreya), và quan trọng nhất chính là Đại Kim Ngoã Điện (Great Hall of the Golden Roof) ^^ 4 khu này quần tụ xung quanh cây Cổ Lai Chiên Đàn nằm ngay trước Đại Kim Ngoã Điện. Du khách ai cũng thích thú không gian rực rỡ của khu vực này nhưng đáng tiếc không ai được chụp ảnh 😦

Cây Cổ Lai Chiên Đàn vẫn xanh um giữa sân và được quây bảo vệ bởi hàng rào gỗ thấp, người Tây Tạng làm lễ bái lạy ở đây rất đông. Dọc theo các bức tường trong khuôn viên là những chiếc kinh luân cổ kích thước to như người thật quay trên những giá gỗ đen nhánh bóng nhẫy dấu tay. Phía trên nóc Đại Kim Ngoã Điện là mái vàng rực rỡ, bên trong điện là stupa mà mẹ Tông Khách Ba đã xây cho ngài năm xưa. Qua thời gian được trùng tu nâng cấp, tháp nay phủ bạc cao đến 11m. Bước vào trong điện, chúng tôi trật tự dò từng bước đến dưới chân stupa để ngẩng đầu chiêm bái Phật tích quý giá nhất Thanh Hải, trong đầu vẫn ngân nga câu nói của người khai tông lập phái Hoàng Mạo Giáo viết thư gửi mẹ … “thân không về được, nhưng lòng hướng về” … vậy mà đã hơn 500 năm rồi đấy! Cầm lòng không chụp ảnh, chúng tôi rời khỏi Đại Kim Ngoã Điện, tiếp tục con đường leo ngược dốc của tu viện Taer đi sang khu tiếp theo.

Tuy xây dọc theo sườn núi, tu viện Taer không quá dốc, đường đá rộng rãi và thoải mái, chính phủ Trung Quốc chắc đã đổ vào đây rất nhiều tiền để tôn tạo và quy hoạch qua nhiều thời kỳ:

Khu điện cuối cùng chúng tôi ghé thăm thực ra là gian trưng bày độc đáo chỉ có ở Thanh Hải: tượng làm bằng bơ bò Yak (Hall of Butter Sculptures), vốn là 1 nghệ thuật tự hào của các nghệ nhân tăng sĩ trong tu viện Taer nổi danh toàn vùng Thanh-Tạng từ thế kỷ 16 đến nay:

Được biết các nghệ nhân này đều phải bỏ ra nhiều tháng công sức để nhào nặn và làm thành các bức tượng để kịp tham dự Tibetan Butter Sculpture Festival (diễn ra trung tuần tháng 2 hàng năm) và tuỳ theo chủ đề của mỗi năm mà sẽ có những tượng hay bức hoạ dạng lớn được làm, ví dụ làm tượng đại sư Tông Khách Ba, tượng Đạt Lai Lạt Ma thứ 5, hay câu chuyện Văn Thành công chúa vào Tây Tạng … Chủ đề năm nay là Phật tương lai Di Lặc (Future Buddha Maitreya). Vì không được chụp ảnh trong gian điện nên mượn tạm 1 tấm trên mạng để bạn đọc hình dung rõ ràng hơn về công phu và tầm vóc các bức tượng làm hoàn toàn từ bơ bò Yak với độ chinh xác và tinh tế bất ngờ:

Ngay phía sau bức tượng này sẽ là bức tượng đã tham gia dự thi năm ngoái 😀 cả 2 bức tượng đều đươc đặt trong lồng kính giữ lạnh khi chúng tôi đến thăm, để chống chọi với cái nắng ngày hè có thể làm chảy các tác phẩm.

Rời khỏi Sculpture Hall, chúng tôi theo con dốc thoải trở ra ngoài cổng, tranh thủ ghi lại những khoảng khắc trước khi rời tu viện Tháp Nhĩ:

Và những mái vàng lấp lánh bên trong tu viện:

Tạm biệt tu viện Tháp Nhĩ và câu chuyện về tuổi thơ của đại sư Tông Khách Ba, chúng tôi ai cũng tấm tắc vì đã có dịp hiểu thêm những điểm độc đáo của vùng Thanh Hải mà trước giờ ít nghe nhắc đến 🙂 Ra đến cổng chánh Đông tu viện, chúng tôi tranh thủ đi dạo nhâm nhi món khoai nướng trước khi theo xe nhắm hướng sân bay trực chỉ:

Từ sân bay Tây Ninh, chúng tôi đáp chuyến bay chiều đi Thành Đô và ngay trong đêm đó bay ra khỏi Tứ Xuyên, tạm biệt Trung Hoa và cũng là kết thúc chuyến đi khám phá phía Tây lần này 🙂 Ngồi trên máy bay chúng tôi vẫn còn ngâm ngợi mãi, nhìn biểu tượng in trên tờ tiền 50 RMB mà không khỏi bâng khuâng về 1 miền đất vừa thật gần không thể tách rời vừa xa xôi như là ảo mộng …

Chuyến bay đêm ai cũng đã say ngủ, nhưng tôi biết có những đôi mắt vẫn mở chong chong nhìn đèn tín hiệu chớp ngoài cánh máy bay trong mây mù giữa lưng chừng trời, hay bởi lòng vẫn còn đau đáu về những điều tuyệt diệu được thấy qua ở phía dưới kia … cao vài nghìn mét trên mặt nước biển, xa trong dãy Hi Mã Lạp Sơn, sâu giữa những hồ nước lớn và rừng cây … một bức tranh Phật giáo tuyệt luân toàn cảnh vẫn trường tồn qua không thời gian … Bài viết ngày 11 đến đây là kết thúc, xin hẹn bạn đọc trong bài cuối – Khúc vĩ thanh Tây Tạng.

Tâm tĩnh lặng

Trong suốt cuộc đời, chúng ta hiếm khi có được những giây phút cô liêu, tịch mịch. Ngay cả những khi sống một mình, cuộc đời chúng ta cũng tràn ngập với quá nhiều nguồn tác động, quá nhiều kiến thức, quá nhiều kỷ niệm của những kinh nghiệm chúng ta đã trải qua, quá nhiều lo âu, đau khổ và mâu thuẫn khiến cho tâm trí chúng ta ngày càng trì trệ, ngày càng chai lì, hoạt động một cách tẻ nhạt, chán chường.

Có bao giờ chúng ta được sống đơn độc thanh thoát chăng? Hay chúng ta luôn luôn mang theo bên mình cả cái đống bùi nhùi của quá khứ? (TVHS)

Trước đây luôn nghĩ bình tâm là phải như thế này …
calmness.jpg

… nhưng sau khi đọc truyện ngắn Tâm tĩnh lặng trên Thư viện hoa sen thấy khái niệm tâm tịnh khác nhiều so với tưởng tượng 😀 Continue reading