Nepal Du Ký – Phần 2: Hành khúc Thamel

Nhắc đến khu Thamel ở Kathmandu cũng giống như nhắc đến khu phố ‘Tây’ Phạm Ngũ Lão ở Sài Gòn hay khu Hồ Gươm ở Hà Nội vậy. Người ta gọi Thamel là thiên đường của dân du lịch bụi, là Nepal thu nhỏ giữa lòng thủ đô một phần vì sự đa dạng sôi động về dịch vụ nhà hàng quán bar, khách sạn nhà nghỉ, cửa hàng cửa hiệu, đại lý du lịch … thôi thì đủ cả; cũng vì nơi đây tập trung những sắc màu cuộc sống phong phú nhất mà ít ai ghé chân đến Kathmandu lại không một (vài) lần lượn qua lượn lại 🙂 Con đường gió bụi từ Pokhara đến Kathmandu cuối cùng đã kết thúc, chúng tôi bồi hồi chạm ngõ thủ đô vào lúc chiều tà. Bài viết hôm nay xin gửi đến bạn đọc những cảm nhận về khu phố Thamel – Hành khúc Ngày và Đêm ^^

Sau khi đã lấy phòng yên vị, tôi mặc ấm và ra khỏi hostel dạo lòng vòng quanh Thamel khi đã lên đèn. Tiết trời Kathmandu buổi tối không quá lạnh, nhiệt độ trung bình 15 độ C, trời nhiều mây không mưa gió nhẹ, tầm nhìn xa không quá 3km vì bụi, khi sang đường các bạn nhớ nhìn trước nhìn sau kẻo đụng phải xe máy và ôtô luôn đánh võng thường trực. Ấn tượng đầu tiên về khu phố Thamel là: đèn đâu mà lắm thế? đồ đâu mà nhiều thế? và giá sao mà đắt thế? Những cửa hàng trên phố chắc cả ngày chỉ đợi khi đêm xuống là bung ra bán với màu sắc ấm cúng bắt mắt:

Những tấm thảm lớn và rất lớn như thế này được quảng cáo là làm từ lông bò Yak (giống bò quen thuộc với bạn đọc nếu đã du hành qua Tây Tạng), giá từ vài nghìn đến vài chục nghìn Nepali Rupee (100 USD = 7,000 NPR), sau khi nghe giá trên trời xong, du khách cứ bình tĩnh mà mặc cả để kéo giá xuống đất 😀 giá hợp lý chỉ bằng 40-60% giá chào ban đầu:

Các loại túi nhỏ cho nam nữ đủ kích thước và chất liệu cũng được bày bán rất nhiều, giá trung bình từ 10-30 USD:

Nếu bạn hứng thú với các đồ gỗ chạm trổ cầu kỳ xinh xắn, Thamel cũng sẽ không làm bạn thất vọng:

Hay những cuốn lịch 2011 bằng giấy tái chế in hình Phật với giá chỉ 120 NPR (~ 2 USD) và những lồng đèn giấy màu mè trang trí hoạ tiết Phật giáo. Kinh nghiệm là bạn cứ mua nhiều (từ 4-5 món) rồi mặc cả giảm giá một lượt là sẽ mua được rẻ:

Rảo bước đi giữa những con phố ngắn và đâm ngang dọc như bàn cờ của Thamel có thể dễ dàng nhận ra phần lớn du khách đến đây đều từ Châu Âu, lý do chính vì đam mê leo núi ở Nepal và tận dụng giá cả rẻ khu vực này để mua đồ dùng dụng cụ

Đủ loại mũ thêu các biểu tượng quen thuộc của Nepal cùng găng tay và khăn ấm:

Những cửa hàng bán áo thun may sẵn của Thamel: bạn cũng có thể chọn mầu áo, chất liệu vải rồi yêu cầu thêu trước ngực, thêu sau lưng, và thêu luôn cờ 2 bên bả vai; thời gian làm chỉ cần 1 ngày và giá 400-450 NPR mỗi chiếc (có thể giảm giá nếu may nhiều), tính ra chỉ 6 USD cho 1 món quà kỷ niệm độc đáo lại thời trang từ Nepal đem về ^^

Một món khác rất thịnh hành trên đường phố Thamel đó là sách! Nhưng chúng tôi đều đồng ý là không nên mua sách ở Thamel nói riêng và Nepal nói chung. Lý do các bạn bán hàng đưa ra cho việc giá cao là: “Sách này chúng em nhập về từ nước ngoài về, phải chịu tỉ giá lên xuống nên khó giảm giá được!”, nghe sao mà gần gũi giống Việt Nam! Có rất nhiều cuốn về văn minh Himalayas cũng như Phật giáo cổ rất đẹp và độc nhưng nhìn giá xong thì âm thầm trả về chỗ cũ 😀 Bạn đọc nếu muốn thì chỉ nên mua bưu thiếp Made in Nepal về làm quà với giá 10 NPR/cái, mua 10 tặng 2:

Ngoài ra, nếu ai thích thú với đồ giả cổ và các món hơi hướng Ấn giáo và Phật giáo có thể ghé vào các cửa hiệu bán đồ kiểu này, cứ cách vài mét sẽ có 1 hiệu như thế nên du khách cứ ép giá tối đa, không được hàng này ta qua hàng khác. Nói chung các bạn bán hàng Nepal khá cởi mở với câu chào “Namaste!” trên môi, hét giá cũng sốc, nhưng mặc cả xong thì vẫn tươi cười bán. Về điểm này Việt Nam mình thua xa dù cũng được tiếng là hiếu khách:

Một rừng Tibetan Singing Bowl cho bạn chọn ^^ Cái nhỏ giá khoảng 300 NPR, cái nhỡ giá khoảng 500 NPR, cái nhớn giá khoảng 700 NPR, cái cực nhớn thì chưa kịp hỏi giá … Đây là các “bát tộ” màu đồng thau hoặc đen hoặc vàng; bên trong và bên ngoài đều có hoa văn đẹp, quan trọng nhất là khi sẽ phát ra âm thanh trong và cao lại ngân vang khi dùng dùi gỗ xoay xung quanh. Nhưng mà âm thanh thì vốn không tả được, xin nhường bạn đọc có dịp sẽ tự khám phá. Trước kia Tibetan Singing Bowl chủ yếu được dùng trong các buổi giảng kinh; còn ngày nay thì đã bình dân hơn, xuất hiện rất nhiều ở Thamel để du khách chúng ta thích thú đánh thử, nghe thử rồi mua thật 🙂

Đi loanh quanh, đời mỏi mệt, bụng đói tay run; tôi ghé vào quán ăn trên đường. Các quán cafe ở Thamel thường kết hợp với nhạc sống, câu lạc bộ xăm trổ, và tất nhiên là hội quán du lịch luôn:

Tôi chọn quán Nhật này vì thích tên quán, nhưng không khí bên trong quán, chất lượng món ăn và giá cả thì tuyệt vời hơn tưởng tượng rất nhiều, cộng thêm với anh phục vụ người Nepal hiền lành, nhiệt tình. Mấy ngày sau đó tôi đều ghé đây ăn sáng và ăn tối:

Giá trung bình mỗi món ăn của quán Momotaru là 150 NPR, phong vị Nepal, Nhật Bản, Âu Mỹ đủ cả:

Bữa tối no nê, tôi trở về Avalon Guesthouse, không quên tặng Thamel một tấm nhìn từ trên cao, nhận xét chung là thành phố nhiều đèn lắm bụi thiếu cây xanh thừa tiếng ồn:

Đêm qua ngày lại, chẳng mấy mà tái ngộ bạn đọc với những hình ảnh cuộc sống Nepal khi bình minh ^^ Phòng tôi ở tầng thượng của Avalon Guesthouse nên sáng ra tranh thủ vừa tập thể dục vừa chụp ảnh từ lầu cao nhất. Từ đây nhìn ra Kathmandu cũng không đáng yêu là mấy, quy hoạch đô thị hỗn loạn như nước mình, chỉ ít nhà cao tầng hơn thôi (>_<)

Luôn tiện giới thiệu thêm với bạn đọc về Avalon Guesthouse: vị trí hostel cách Thamel khoảng 5 phút đi bộ, cách sân bay 20′ chạy taxi. Phòng vừa và nhỏ, giá từ 15 USD đến 30 USD/đêm, sạch sẽ, không bọ rệp, nước nóng 24/7 vì khách sạn dùng pin mặt trời để nấu, có thể đặt phòng trước từ HostelWorld. Nhân viên khách sạn trẻ và nói tiếng Anh tốt, Internet không dây không có (thay vì đó là 1 máy tính nối mạng đặt ở tầng trệt, không chặn Facebook hay Twitter như Trung Quốc), tốc độ mạng chậm và không ổn định – cũng là bệnh chung của Nepal (Việt Nam nay chữa khỏi rồi ^^). Bác quản lý Avalon nhiệt tình và biết kinh doanh, sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm du lịch về Kathmandu, giúp bạn đặt chỗ gọi xe taxi đi quanh thành phố với giá mặc cả được. Nhưng ấn tượng nhất phải nói là là bác bảo vệ vốn là 1 quân nhân giải ngũ luôn trong trang phục quân cảnh chỉnh tề và chào kiểu lính mỗi khi chúng tôi ra vào hostel 🙂

Rời Avalon, chúng tôi lại bắt đầu ngày mới bằng việc ngắm nhìn Thamel ban ngày trước khi thuê xe taxi đi thăm các khu xung quanh Kathmandu. Thamel ban ngày nhìn cũng nhiều màu sắc nhưng bụi bặm và lười biếng hơn lúc về đêm:

Bản đồ Thamel có thể tìm thấy trên … tường nhưng chắc không mấy hữu ích. Bạn đọc cũng không cần đến bản đồ LonelyPlanet mà làm gì vì chỉ cần lượn Thamel từ lần thứ 3 trở lên là thông thuộc hết 😀 Giao thông trên phố Kathmandu khá bát nháo, đường phần lớn là bụi bẩn, khẩu trang là vật bất ly thân cho tất cả mỗi khi ra đường!

Gần 8h sáng, tiết trời thu trong mát của thủ đô đang là 15 độ C, một ly cafe nóng làm cho chúng tôi sảng khoái và xách máy đi chụp khoảnh khắc phố phường cùng những con người Nepal ^^

Gửi tặng bạn đọc loạt ảnh Nepal trắng đen, cảm nhận xin tuỳ mỗi người:

… Chẳng thể nào qua hết từng con phố, nhưng còn đó mùa thu đầy gió và cuộc sống phố phường thanh bình … chúng tôi tạm rời Thamel bắt đầu hành trình khám phá các vùng xung quanh thung lũng Kathmandu trong hôm nay mà điểm đến đầu tiên là đền thờ Changu Naryan – đền Hindu cổ nhất có từ thế kỷ IV; chi tiết phải hẹn bạn đọc trong bài tiếp theo Phần 3: lạ lẫm Changu Narayan.

Nepal Du Ký – Phần 2: Đường về Kathmandu

Qua núi, qua sông, qua đồng lúa chín, tôi nghe xao xuyến cảnh đẹp Nepal. Rời bến xe trung tâm Pokhara, chúng tôi bắt đầu chuyến đi thú vị dài hơn 6 tiếng đồng hồ vượt 200 cây số từ Pokhara về đến thủ đô Kathmandu. Pokhara-Kathmandu là tuyến đường quan trọng của Nepal nên du khách có rất nhiều lựa chọn di chuyển, mà kinh tế và phổ biến nhất là đi bus đường dài, ví dụ tiêu biểu: Green Line bus với giá 18USD/người có bao gồm ăn trưa, khởi hành sáng 8h hàng ngày từ Pokhara và đến Kathmandu khoảng 3h chiều. Thay vì Green Line bus, chúng tôi chọn đi Sahara Bus với giá 10USD/người và không có bữa ăn trưa. Hành khách có thể mua vé trực tiếp ở bến xe nhưng tốt nhất là nhờ khách sạn mua vé giùm từ ngày hôm trước.

Thuộc loại bus mới nhưng không xịn, Sahara bus về mặt lý thuyết thì có điều hoà nhưng thực tế thì ngược lại, ưu điểm duy nhất là khởi hành đúng giờ và chỉ dừng nghỉ 2 lần (kể cả giờ ăn trưa) trên toàn tuyến, âu cũng là tiền nào của nấy:

Có quạt đấy nhưng mà không bật. Xe dựa vào gió trời làm mát:

Chuyện kể trên xe chắc sẽ nhàm, tôi xin dùng thủ pháp song song để tăng phần “kịch tính”. Thủ pháp này chắc bạn đọc không lạ gì qua truyện “Thiếu nữ đánh cờ vây” của Sơn Táp hay “Kafka bên bờ biển” của Haruki Murakami, chỉ có điều không tài tình như các nhà văn mà thôi 😀 Với tôi, đó là sự kết hợp của 2 tuyến: câu chuyện nhỏ về Phật Thích Ca và câu chuyện của tôi trên đường du lịch ^^

Ngày xửa ngày xưa, hơn 560 năm trước Công lịch, nửa thế kỷ trước khi Chúa Jesu ra đời, vài vạn năm trước khi Đảng Cộng Sản Nepal (Maoist) lên nắm quyền, xa xôi hơn rất nhiều chiến sự Ấn Độ – Pakistan tranh giành cao nguyên Kashmir, cũ kỹ hơn rất nhiều những căng thẳng biên giới Nepal – Tây Tạng, nằm trong khu vực đồng bằng nằm cạnh dãy Hy Mã Lạp Sơn và sông Hằng nhìn ra vịnh Bengal, người ta biết được có những tiểu quốc độc lập và một trong các tiểu quốc đó có tên là Ca Tì La Vệ (Kapilavatsu) của vương triều Thích Ca (Shakya) có khu vườn Lâm Tì Ni (Lumbini) – ngày nay là 1 chấm nhỏ trên bản đồ Nepal nằm sát cạnh biên giới với Ấn Độ – nơi giữa những ngày tháng 4 nóng như thiêu đốt đã ra đời thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm (Siddhārtha Gautama), người mà sau này được ghi công sáng lập Phật giáo cho nhân loại …

… Xe đưa chúng tôi đi qua những phong cảnh làng quê Nepal vẫn còn chìm trong sương khói gợi lên cảm giác thân quen của những đoạn đường làng rợp lúa chín vụ hè thu vùng đồng bằng Bắc Bộ:

… Sinh ra trong nhung lụa, lại nhắm vào thời kỳ Ấn Độ cổ đặt nặng phân chia giai cấp (4 giai cấp chính: Giáo sĩ – Brahmin/Priest, Chiến binh – Kshatriya/Warrior, Lái buôn – Vaisya/Commoner, và Nô lệ -Shudra/Slave), thái tử Siddhartha từ những ngày thơ ấu đã băn khoăn với câu hỏi “Tại sao?” và “Ai là người phân chia giai cấp xã hội để con người làm khổ lẫn nhau rồi khi chết đi đều về với cát bụi?” …

Công bằng mà nói, điều kiện vật chất của Nepal còn kém Việt Nam và các nước Đông Nam Á khá xa. Ở những đoạn đường đồng không mông quạnh thường hiện ra các trạm … đứng chờ xe buýt:

Còn nhà cửa 2 bên đường thì khá đơn sơ – một Hà Tây quê lụa nửa thập kỷ về trước:

… Cha ông và người dân Kapilavatsu mong muốn ông trở thành ông vua vĩ đại đưa đất nước ra khỏi vòng kềm toả của vương quốc láng giềng Kiêu Tát La (Kosala), vợ ông cũng muốn níu chân ông lại nơi hoàng cung sau khi bà sinh được con trai; nhưng trong tim Tất Đạt Đa nung nấu 1 ước nguyện khác. Bỏ lại địa vị tôn quý và gia đình mình, ông lên đường đi tìm câu trả lời cho câu hỏi của mình “Làm sao để diệt khổ phổ độ chúng sinh?”. Lúc này thái tử 29 tuổi, con trai ông chưa đầy tháng được ông đặt tên là La Hầu La (Rahula) có nghĩa là “Vật cản” (Obstacle) …

Nhưng cũng nhờ thế mà chạy vào tầm mắt của chúng tôi chỉ có màu xanh bát ngát của núi đồi và màu vàng ruộm của lúa chín ngày mùa mà không bị nhà cửa che khuất:

… Trải qua nhiều năm nếm trải cay đắng, kể cả đã tầm đạo nơi thành Vương Xá (Ràjagriha) xứ Ma Kiệt Đà (Magadha) hay tu khổ hạnh suốt 6 năm, lại chứng kiến những hạnh phúc và cả đau thương của loài người, Tất Đạt Đa cuối cùng đã giác ngộ dưới tán cây bồ đề ở Bồ Đề Đạo Tràng (Boudhagaya), nhận ra được nhận nguồn gốc sanh tử luân hồi chính là vô minh. Lúc này Phật Thích Ca mới 35 tuổi …

Dường như đã quá quen thuộc với địa hình thoai thoải xuống lên không ngừng của đường cao tốc Pokhara – Kathmandu, bác tài xế xe Sahara chạy băng băng qua sông suối cầu vượt, ngồi trên xe chúng tôi chỉ biết đảo qua đảo lại để tranh thủ chụp được tấm nào hay tấm đó. Đoạn đường này về mặt hiểm trở thì không thể so với cung đường Vân Nam hay tuyến xe vào Lhasa, Tây Tạng.

Các bạn Ấn Độ đi chung cũng thoải mái tận hưởng thời gian rảnh trên xe buýt để ăn uống và đọc sách. Điều phàn nàn duy nhất là đồ ăn sau khi dùng xong các bạn ý mở cửa sổ ném ngay ra ngoài khi xe đang chạy nhanh >_<

… Trong vườn Lộc Uyển (Sarnarth) gần thành phố Ba La Nại (Varanasi) – nay thuộc bang Uttar Pradesh, Ấn Độ; Đức Phật bắt đầu bài giảng đầu tiên của mình về kinh nghiệm giác ngộ và giải thoát (gọi là Chuyển Pháp Luân) cho 5 vị Tỳ kheo …

Đồng hồ chỉ 11 giờ 30 phút, hoàn toàn không có ánh mặt trời, làng quê Nepal vẫn mù mịt hơi sương, xe dừng cho chúng tôi giải lao ăn trưa. Không có nhiều điểm dừng như tuyến xe buýt Malaysia – Singapore, vị trí chúng tôi đỗ lại cũng gặp hầu hết các đoàn xe chạy Pokhara – Kathmandu. Còn quán ăn thì rất đơn sơ, phía trước là núi, phía sau là ruộng, trong quán bán masala tea (trà sữa) và các món cơm Ấn Độ với giá cả phải chăng.

Nhìn vào “hậu viên” chắc ai cũng nghĩ đây là khung cảnh Việt Nam quê mình, khác chút là thiếu gà thả vườn:

Các bé gái Nepal rất thân thiện với khách du lịch và nói tiếng Anh tốt ^^

… Những giáo lý của Đức Phật về Tứ Diệu Đế, Duyên Khởi, Luật Nhân Quả được Ngài tích cực truyền dạy. Sử cũ còn chép vị trí đỉnh Linh Thứu (Gridhrakuta) nơi Đức Phật giảng kinh, ngày nay du khách đến thăm chỉ thấy còn tàn tích xưa cũ đã hơn hai ngàn tuổi …

Sau bữa trưa không đặc sắc, chúng tôi theo xe tiếp tục quãng đường còn lại. Tôi cũng lim dim chợp mắt cho đến gần 1h chiều khi xe chuẩn bị qua con đèo cuối cùng để đặt chân vào Kathmandu. Dừng lại ở thị trấn ngay trước chân đèo, bác tài đổ xăng và cho hành khách 15′ để mua đồ ăn thức uống trước khi vượt đèo. Được biết xăng dầu là vấn đề đau đầu cho Nepal bởi giá cả leo thang liên tục và luôn khan hiếm nguồn hàng; cũng là điểm tương đồng với nước ta 😀

Mặt trời lúc này đã chói chang, khung cảnh cuộc sống thị trấn đầu giờ chiều:

… Trong suốt 45 năm còn lại, Đức Phật Thích Ca không ngừng giáo hoá, thuyết pháp độ sanh, bản thân Ngài cũng trải qua nhiều lần bị ám hại, những kỳ truyện huyền thoại về cuộc đời Ngài vì thế cũng được thêu dệt nhiều lên …

Các món (khó) ăn giá rẻ của nước bạn như ngô non trộn gạo rang, dưa chuột và muối ớt, hay cá sông nướng tẩm ớt – chụp lên nhìn còn đỡ, chứ nếm vào thì mất hết thiện cảm 😀

… Lòng từ bi và sự tận tâm tận lực trong việc giáo hoá con đường giải thoát của Ngài làm tiền đề sau này cho sự lan rộng và phát triển rực rỡ của Phật giáo không chỉ ở Ấn Độ mà truyền sang các nước Thái Lan, Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, Hàn Quốc …

Sau khi thử vài món và hối hận tràn trề, chúng tôi tiếp tục 2 tiếng hành trình còn lại mà không biết rằng thời gian thực tế cần để vượt đèo biến thành hơn 4 tiếng bởi quãng kẹt xe kéo dài từ lúc bắt đầu lên cho đến lúc thả dốc xuống đèo. Chắc là việc kẹt xe trên đường về thủ đô rất phổ biến nên các lái xe không ai phàn nàn bực dọc gì, tất cả đều ra ngoài hút thuốc gọi nhau í ới 😀 Tôi cũng tranh thủ xuống đường xem nước bạn kẹt xe có khác gì nhà mình không, nhận ra là cũng bụi bặm và mất thời gian như nhau, khác chăng các bạn Nepal “lười biếng” nên ít bấm còi inh ỏi như các bạn Việt Nam!

Vài hình ảnh xe con xe to “Lái chậm – Sống lâu” với màu sắc loè loẹt xếp hàng như hộp diêm trên đường leo lên:

…Năm 483 trước Công Nguyên, trong cánh rừng Sà La ở Câu Thi Na (Kusinagara), Đức Phật Thích Ca nhập diệt, giải thoát khỏi mọi khổ đâu phiền não trong cuộc sống. Khi đó Ngài 81 tuổi. Ngài căn dặn chúng đệ tử rằng vạn vật vô thường không ra khỏi vòng biến hoại, phải không ngừng tinh tiến tu học để đạt giải thoát …

Thoát khỏi con đèo ngoạn mục cuối cùng, chúng tôi bon bon chạy vào thủ đô. Cửa ngõ Kathmandu hiện ra trong nắng chiều rất đẹp, cũng là những phút giây thư giãn thú vị nhất cho cả ngày di chuyển từ Pokhara về. Bạn đọc sau này đi thăm thú Nepal nếu phải di chuyển giữa 2 thành phố Pokhara – Kathmandu, hay đi rừng quốc gia Chitwan có thể xem xét việc đi xe buýt bởi yếu tố kinh tế (giá chỉ 10USD so với vé máy bay 100USD) nhưng không nên hy vọng quá nhiều vào việc ngắm cảnh đẹp trên đường 🙂 Một vài hình ảnh Kathmandu chào chúng tôi lúc 6h chiều:

… Câu chuyện nhỏ về Đức Phật lịch sử tôi kể đến đây là hết, các hình ảnh đen trắng minh hoạ được lấy từ truyện tranh “Buddha” của hoạ sĩ Nhật Bản Osamu Tezuka. Vùng đất sinh ra thái tử Tất Đạt Đa ngày nay thuộc về phần đất bên Nepal chứ không phải Ấn Độ nữa, người dân Nepal do đó rất tự hào về di sản thánh tích Phật giáo của mình, dù biết sự thực nơi đây đã bị huỷ hoại gần hết. Như bóng câu qua cửa sổ, vùn vụt đã hơn hai nghìn năm biến cải, nhân loại vinh danh tôn giáo do Đức Thích Ca sáng lập; liệu trong ngày mai của những ngày mai sẽ ra đời vị Phật tương lai để tiếp tục hoằng trương giáo pháp?

Truyện kể trên từng cây số của tôi cũng theo đó mà dừng ở đây. Trải qua nửa ngày đi xe buýt, chúng tôi về tới thủ đô Kathmandu 🙂 Khách sạn chúng tôi thuê là Avalon Guesthouse với giá 15USD/phòng và vị trí ở ngay sát khu Thamel. Tôi sẽ có dịp thông tin đầy đủ hơn về hostel này trong các bài viết sắp tới, xin hẹn gặp lại bạn đọc ^^

Nepal Du Ký – Phần 1: Nồng nàn Sarangkot

Rời Pokhara, chúng tôi bắt taxi chạy lên Sarangkot – ngôi làng nằm trên đồi cao cách Pokhara 15km, nơi có thể ngắm toàn cảnh thung lũng Pokhara và đặc biệt là các đỉnh núi trong dãy Himalayas. Du khách thường lên Sarangkot lúc chiều tà để tận hưởng 1 đêm thanh bình của cao nguyên, quan trọng hơn là sáng hôm sau dậy sớm ngắm bình minh; và chúng tôi cũng không ngoại lệ 🙂

Thoả thuận xong giá cả với bác tài xế (taxi lên Sarangkot ngày đầu và đón xuống vào sáng sớm ngày hôm sau, tổng cộng 20 USD), chúng tôi yên tâm khởi hành. Đường lên Sarangkot chạy qua những khu làng nhỏ, con dốc trước mặt ngập tràn ánh nắng chiều ^^ Khi xe đã vào làng, chính giữa làng là 1 ngọn đồi cao, từ đây trở lên khách du lịch buộc phải leo núi. Với những người quen leo trèo thì quãng này cần hơn 2 tiếng đồng hồ. Đỉnh đồi có Tháp quan sát (Sarangkot View Tower), trước kia là tháp canh của quân đội, ngày nay biến thành địa điểm cho du khách cắm tripod và chờ mặt trời lên mỗi buổi đầu ngày 🙂 Chúng tôi lại đeo balo và xách máy ảnh hì hục leo, tuy rất mệt nhưng bù lại phong cảnh từ Sarangkot nhìn xuống thật sảng khoái!

Đường lên dích dắc những bậc đá lớn nhỏ nhưng địa hình Sarangkot không cheo leo, nhờ thế ai cũng có thể trèo lên ngắm cảnh và tìm cho mình những góc chụp ưng ý mà không sợ nguy hiểm.

Số liệu thống kê của Wikipedia cho biết Sarangkot có hơn 1,000 nóc nhà với dân số chỉ vỏn vẹn hơn 5,000 người nhưng tôi tin là con số thực tế còn thấp hơn nhiều. Và phần lớn các ngôi nhà chúng tôi gặp trên đường đều đã chuyển sang kinh doanh dịch vụ nhà nghỉ khách sạn.

Hiếm hoi lắm mới bắt gặp những ngôi nhà nhỏ của người Nepal xây bằng bùn đỏ bên cạnh những thửa ruộng cạn xanh um như thế này:

Leo mãi leo mãi, đến khi chúng tôi đuối sức thì cũng đặt chân đến nhà nghỉ Superview mà tôi đã đặt chỗ trước qua HostelWorld, nhà nghỉ này nằm phía dưới View Point, chỉ cần 20′ leo từ đây là lên đến được Tháp quan sát. Chúng tôi quyết định dừng chân nghỉ mệt để sáng hôm sau dậy sớm lên Tháp. Một vài hình ảnh của khách sạn Superview:

Tuy không xuất sắc về chất lượng phòng cùng giá cả (15USD/đêm) nhưng Superview giành được thiện cảm của du khách bởi vị trí đắc địa nhìn bao quát xuống thung lũng:

Lúc này ráng chiều đang miên man về trên phố núi:

Trời nhập nhoạng tối cũng là lúc các quầy hàng đóng cửa, người dân Sarangkot cũng trở về nhà:

Chiếm một bàn ngay sát mép đá nhìn ra vùng hồ Phewa dưới chân, chúng tôi thư thái ngắm hoàng hôn buông xuống trên Pokhara:

Khi bóng tối đã trùm lên nuốt chửng thung lũng, Pokhara dưới chân Sarangkot trở nên lung linh huyền ảo hơn …

… cũng là lúc chúng tôi thưởng thức bữa tối ấm cúng bên ngọn đèn nến với bia Everest nổi tiếng của đất nước này ^^

Không có nhiều món ăn đêm như Hà Nội hay cái tấp nập đèn còi của đêm Sài Gòn, lại thiếu đi sắc màu ấm cúng như đêm Lệ Giang hay cái kỳ ảo của đêm Lhasa, đêm Sarangkot có nét tương đồng với đêm Cửu Trại Câu, tiết trời thu khiến vùng cao nguyên trở rét đậm khi không có ánh mặt trời. Mới hơn 9 giờ tối mà phần lớn các ngôi nhà đã tắt đèn đi ngủ, cuộc sống của họ dường như bắt đầu rất sớm mỗi ngày và cũng kết thúc rất sớm. Cả vùng đồi Sarangkot trở nên tĩnh mịch, tôi trở về phòng, không quên chụp vài tấm ảnh thung lũng Pokhara và vùng hồ vẫn đang rực sáng dưới kia:

Và trước khi kịp nhận ra mình đã ngủ 1 giấc say sưa quên đời, tiếng ì xèo bên ngoài hành lang đánh thức tôi dậy, đồng hồ chỉ 5h45 sáng … chỉ còn 30′ trước khi mặt trời mọc trên Sarangkot theo kinh nghiệm của những người ở đây. Trước cửa phòng tôi lúc này là 1 biển sương trắng mịt mờ với dải màu hồng nhạt báo hiệu mặt trời đang lên.

Các cửa hiệu người Nepal cũng đã chong đèn mở cửa từ tờ mờ đất:

Rời khách sạn Superview, chúng tôi hăm hở leo theo những bậc thang đá còn ướt sương nhắm lên View Point, vô số các bạn trẻ Nepal cũng đang từ dưới đồi leo lên:

Tuy chỉ gần 20 phút leo thang nhưng vào lúc 6h sáng khi trời còn chưa tỏ mặt người cộng với không khí se lạnh tràn vào phổi khi gắng sức leo những bậc đá dốc, chúng tôi ai nấy đều tái mét và mệt đứt hơi 😀 may sao những bậc cuối đã hiện ra:

Lên được đến Tháp quan sát, tôi dựng tripod và bắt đầu chụp những bức ảnh đầu tiên cho dãy Annarpurna và đỉnh Fish Tail khi mặt trời chưa ló dạng. Cả thung lũng lúc này có màu sắc rất huyền ảo do được bao phủ bởi biển sương khói chưa tan hết:

Không chỉ có chúng tôi mà rất nhiều khách du lịch và người địa phương đã lên đây từ sớm cùng đón mặt trời:

Không cần đợi quá lâu, 6h15 phút sáng, mặt trời phương Đông đã nhô lên với ánh sáng dìu dịu, chúng tôi không ngần ngại cùng nâng máy lên nhắm thẳng chân trời mà chụp:

Ánh sáng lan toả nhuộm hồng từng đỉnh núi của dãy Hy Mã và rọi sáng vùng thung lũng dưới chân núi:

Tôi đã có dịp ngắm mặt trời mọc nhiều lần, nhưng đây là lần đầu tiên ngắm sự chuyển màu của những đỉnh núi tuyết trắng từ xám sang hồng sinh động đến thế! Trong chưa đầy 10 phút, cảnh sắc toàn bộ vùng Pokhara đã hiện ra rõ mồn một dưới ánh sáng chan hoà. Chúng tôi cũng sửa soạn xuống núi để bắt kịp chuyến xe buổi sáng từ Pokhara về thủ đô Kathmandu. Đường xuống núi buổi sáng sớm cũng rất đẹp:

Người dân Sarangkot đang rất mải mê với việc lấy nước trong buổi sớm cao nguyên thanh bình:

Cảnh vật và con người Sarangkot trở nên rực rỡ khác hẳn cái ảm đạm lạnh lẽo về đêm:

Tháp quan sát đã lùi lại sau lưng chúng tôi rất xa, tôi đứng lại tranh thủ chụp xung quanh lần cuối trước khi từ biệt Sarangkot. Đây là ngọn View Tower nhìn từ dưới lên:

Xa kia là đỉnh Fish Tail sừng sững và lòng chảo Pokhara vừa tỉnh giấc:

Dưới chân tôi là những đoạn dốc đá cuối cùng trước khi rời nơi đây tiếp tục cuộc hành trình:

Xuống đến chân núi, bác tài xế tốt bụng đã đợi sẵn để đưa chúng tôi ra bến xe:

Đường đi rất vắng, mất hơn 40′ chúng tôi đã có mặt ở bến xe trung tâm của Pokhara, quang cảnh bến xe lúc này:

Lúc này mới 7 giờ 30 phút sáng, cũng là khi chúng tôi nói lời tạm biệt với thành phố xanh và cao nguyên Sarangkot nồng đượm cùng những người dân Pokhara chất phác để đến với thủ đô Kathmandu. Không quá phát triển và còn thiếu nhiều tiện nghi, cuộc sống còn khó khăn đôi khi có phần nhàm chán nhưng Pokhara để lại trong tôi ấn tượng về sự sạch sẽ, thanh bình và thư thái trong tâm hồn. Quanh quanh là núi, chính giữa là hồ, thung lũng Pokhara như thu mình lại tránh bon chen, lại đẹp dịu dàng níu chân khách phương xa. Tôi nhớ mãi sự so sánh hài hước của bác tài xế khi biết chúng tôi sắp rời Pokhara để đi Kathmandu: “You’re living heaven for hell” mà phải đến sau này khi đã có dịp chứng nghiệm Kathmandu tôi mới hiểu ẩn ý đằng sau câu nói đó, nhưng mọi chuyện phải đợi hạ hồi phân giải ^^

Bài viết Phần 1 hành trình Nepal xin kết thúc ở đây, hẹn gặp lại bạn đọc trong các phần tiếp theo dành trọn khám phá Kathmandu và các vùng phụ cận.

Nepal Du Ký – Phần 1: Trong trẻo Pokhara

Nepal hấp dẫn khách du lịch bởi những ngọn núi cao, những thung lũng sâu, những thác ghềnh trắng xoá, những khu rừng Quốc gia, và cả những di tích lịch sử văn hoá lâu đời. Nói đến Nepal, người ta nghĩ đến tháng ngày ròng rã leo núi vượt đèo, những phút giây say sưa ngắm Hy Mã Lạp Sơn ẩn hiện trong mây, những hứng khởi bay ngang nóc nhà thế giới, hay lúc thót tim chèo thuyền nhảy dù cưỡi voi và cả khi tấm tắc chiêm ngưỡng những công trình kiến trúc đậm nét Nepal – kết quả pha trộn đầy màu sắc của văn hoá cao nguyên Tây Tạng và Ấn Độ.

Trong khuôn khổ chuyến đi ngắn ngày của mình tới Nepal, tôi tự chọn cho mình một vài địa danh trong số rất nhiều điểm dừng chân được ưa thích ở Nepal. Bài viết của tôi không có tham vọng giới thiệu hết về đất nước hình thang này mà chỉ muốn ghi chép lại những điều được thấy trên đường thiên lý. Điểm đến đầu tiên của tôi là thành phố xanh Pokhara nằm ở phía Tây của thủ đô Kathmandu trong lòng thung lũng Pokhara – nơi hội tụ của những độ cao từ 1,000m cho đến 8,000m; cũng là thành phố lớn thứ 2 của đất nước. Bản đồ thành phố khá đơn giản chia làm khu phố mới (New Pokhara), khu phố cũ (Old Pokhara), và trái tim toàn thành phố là vùng hồ Phewa (Phewa Tal). Thông thường khách du lịch còn leo lên khu làng Sarangkot nằm cách Pokhara hơn 15km về phía Tây Bắc để ngắm được toàn cảnh thung lũng cũng như các đỉnh núi cao. Bài viết của tôi xin mượn tựa sách “Ngẫu hứng Sáng Trưa Chiều Tối” của nhà văn Tạ Duy Anh để dẫn truyện 🙂

1. Pokhara – Ngẫu hứng Chiều:

Pokhara đón chúng tôi trong tiết trời se lạnh nhiều mây mù cho dù lúc này đã xế trưa. Khách sạn tôi đặt là Hotel Travel Inn (Lakeside-6, Baidam) vị trí khá trung tâm ở khu phố mới với giá 20 USD/ngày, có nước nóng và Internet, cách sân bay khoảng 30′ chạy xe. Lấy phòng khách sạn xong, chúng tôi tranh thủ ăn trưa và bắt đầu khám phá Pokhara ngay đầu giờ chiều.

Vốn là điểm hội tụ của khách du lịch, đường phố Pokhara dường như chỉ có 1 nhiệm vụ duy nhất: kinh doanh ^^ Các cửa hàng cửa hiệu bán đồ lưu niệm, đồ dùng du lịch và quán ăn nối nhau san sát:

Các quán ăn ở Pokhara nói riêng và Nepal nói chung có thực đơn khá đầy đủ chia ra làm món Á, món Âu, và món truyền thống (Newari) nên du khách luôn có nhiều lựa chọn. Giá cả trung bình từ 6-8 USD mỗi người mỗi bữa (có cả tiền đồ uống). Chọn 1 quán có tầm nhìn tốt và không gian ấm cúng, tôi ăn bữa trưa đầu tiên trên nước bạn, cũng là tận hưởng sự thanh bình kỳ thú từ ban công nhìn xuống phố phường. Cũng xe máy, cũng ôtô con, cũng dây điện chằng chịt dọc ngang y hệt quê mình, có chăng là vắng tiếng còi xe và khói bụi 😀 tôi cảm tưởng như mình đang ở Việt Nam những ngày giáp Tết ^^

Từ khu phố mới ra đến hồ Phewa chỉ mất 10′ đi bộ. Hồ Phewa là hồ lớn thứ 2 của toàn Nepal, cũng có lẽ là nơi đẹp thu hút nhất trong toàn bộ Pokhara, tuy rằng hồ cũng không thơ mộng là mấy. Những hình ảnh đầu tiên của Phewa làm tôi nhớ đến bến đò chùa Hương ở Mỹ Đức, Hà Tây nhiều hơn 😀

Những chiếc đò trên bến Phewa ngang dọc nhiều màu sắc, nam thanh nữ tú Nepal nô nức lên đò qua hồ, lý do vì giữa hồ có đền thờ Barahi Temple. Giá đò từ bến sang đền và quay lại là 50 NPR/người, còn nếu thuê theo giờ đi vòng quanh hồ là 600 NPR/thuyền.

Chúng tôi cũng nhập hội với các nhóm này để thuê đò sang đảo thăm đền. Hồ Phewa tuy mát mẻ nhưng nước hồ không sạch, cá trong hồ nhiều và được đánh bắt để phục vụ kinh doanh ăn uống. Trên đường chèo thuyền, chúng tôi gặp nhiều nhóm bạn trẻ Nepal rất bạo dạn và nghịch ngợm, hầu hết đều nghĩ tôi là khách du lịch Trung Quốc 😀

Đền thờ Barahi Temple trên đảo giữa hồ đem lại cảm giác thất vọng tràn trề vì quy mô nhỏ bé và kiến trúc đơn giản, hơn cả là vì không hiểu rõ lắm đạo Hindu và đền không dành cho người ngoại đạo vào nên chúng tôi chỉ đứng ngoài chụp ảnh và quanh quẩn trên đảo đợi chuyến đò về 😀

Trời đã về chiều, từ phía đảo chúng tôi nhìn được thấp thoáng đỉnh Machapuchare nổi tiếng (tên khác là: Fish Tail) cao 7,000m nằm trong dãy Annapurna sừng sững phía xa:

Lái đò lại lần lượt trả khách về bến; trong bóng chiều lảng bảng, Phewa dần tối và trở nên cô tịch hơn, lòng người cũng theo đó mà chùng xuống. Chúng tôi quyết định sáng mai sẽ còn trở lại bến đò khi mặt trời lên với hy vọng nhìn được đỉnh Machapuchare rực rỡ hơn!

Sang, về ? (Bảo Sinh)
Cùng chung một chuyến đò ngang
Kẻ thì sang bến,người đang trở về
Lái đò lái mãi thành mê
Sang về chẳng biết mình về hay sang

Bước trở lại khu phố mới, từ rất xa trên đỉnh đồi xanh trước khi nắng tắt, tôi còn nhìn được bóng dáng của Stupa khổng lồ nổi tiếng của Pokhara mà tôi sẽ giới thiệu cụ thể hơn trong phần Ngẫu hứng Sáng của ngày du hý tiếp theo.

2. Pokhara – Ngẫu hứng Tối:

Pokhara về đêm lạnh hơn ban ngày và cũng vắng vẻ hơn hẳn, du khách dường như đã chui hết vào các quán ăn hay quán Internet cafe, để lại đường phố tĩnh mịch hắt ánh sáng từ những cửa hiệu bán đồ lưu niệm:

Internet ở Nepal tốc độ chậm và không ổn định có giá 50 NPR/giờ:

Bên trong các cửa hiệu Pokhara là vô số sách báo, tranh ảnh, bưu thiếp, bản đồ du lịch vùng Himalayas. Đây quả là thiên đường mua sắm đồ giả cổ cho những ai hứng thú với Phật giáo và Hindu giáo, nhưng phải luôn nhớ: mặc cả nhiệt tình, ép giá tối đa 😀 phần lớn các món đồ đều có thể trả giá bớt 50% thậm chí 70% so với giá gốc! Đây cũng là kinh nghiệm nhớ đời cho tôi vì mua hớ vài món đồ, đến khi về Kathmandu thì trình độ mặc cả đã được nâng lên một bậc ^^

Một số cửa hiệu này được bán bởi người Tạng từ Tây Tạng sang và giờ đã định cư tại Nepal. Điểm chung trong các cửa hiệu này nếu bạn bước vào sẽ nhận ra ngay: đó là lá quốc kỳ Tây Tạng Sư tử trắng bờm xanh và ảnh Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso được treo ở vị trí trang trọng nhất giữa nhà. Điều này chúng tôi còn được diện kiến nhiều hơn trong ngày mai khi đi thăm 1 ngôi làng người Tạng ở Pokhara (xin giới thiệu với bạn đọc ở mục tiếp theo).

3. Pokhara – Ngẫu hứng Sáng:

Bình minh Pokhara bắt đầu từ khoảng 6h15 sáng, mặt trời lên rất nhanh nhuộm hồng ngọn Fish Tail. Sau giấc ngủ khoan khoái qua đêm trong tiết trời se lạnh 15 độ, chúng tôi nhanh nhẹn trở dậy và đi đón ánh dương ^^

Phố phường Pokhara cũng đang dần tỉnh giấc, hôm nay hứa hẹn sẽ là 1 ngày đẹp trời đầy nắng:

Như đã định từ hôm trước, chúng tôi rảo bước ra hồ để chào Phewa Lake. Quang cảnh bến đò vắng khách trong nắng sớm yên ắng và phong quang hơn nhiều:

Đỉnh Fish Tail và dãy Annapurnas có thể nhìn thấy rõ từ phía bờ hồ:

Hít thở không khí trong lành quanh hồ xong, chúng tôi bắt đầu lịch trình dạo chơi Pokhara sáng nay: leo lên World Peace Pagoda, ghé qua Old Pokhara, và thăm đền thờ Bindabasini Temple ^^

a) World Peace Pagoda – Tháp Hoà Bình – hay còn có tên khác là Shanti Stupa được xây dựng trên đồi nhìn xuống hồ Phewa và toàn thành phố Pokhara nhờ vào công sức các nhà sư Nhật nằm trong hiệp hội Japanese Nipponzan Myohoji với mục đích vừa hoằng trương Phật pháp cũng là thể hiện mong ước 1 thế giới hoà bình. Cho đến nay đã có hơn 80 tháp như vậy được xây dựng trên khắp thế giới (tham khảo). Từ khu phố mới New Pokhara, du khách có thể đi thuyền vượt hồ Phewa Tal rồi leo tiếp theo đường rừng với thời gian hơn 1 tiếng để lên đến đỉnh đồi hoặc thuê xe taxi chạy vòng qua hồ để lên đến gần đỉnh đồi rồi đi bộ 15′ sẽ tới nơi.

Đường xe chạy lên đồi là những khúc quanh gấp và nhỏ hẹp trên đường đá sỏi gập ghềnh, nhưng phong cảnh loang loáng trong nắng sớm nhìn từ trên cao xuống quả là đẹp tuyệt vời! Sau 20′ chạy xe, chúng tôi dừng lại ở bãi đậu và đi bộ từ đây leo lên đỉnh đồi.

Càng lên cao Pokhara càng thu vào tầm mắt xinh đẹp và xanh hơn. Đường lên đồi thoai thoải có trải đá nên đi lại không mấy khó khăn, tôi tranh thủ chộp được thành phố rẻo cao vẫn còn ướt sương sớm:

Sau 15′ leo đồi chúng tôi đã đền gần cổng vào khu World Peace Pagoda, xung quanh đây có vài nhà hàng nhỏ bán bữa sáng kèm chỗ ngồi ngắm cảnh:

Một em bé gái người Nepal chúng tôi gặp đang trên đường đi lấy nước từ Stupa xuống đồi:

Trước mặt chúng tôi giờ là khuôn viên của World Peace Pagoda:

Ngay chính giữa đỉnh đồi nổi bật lên kiến trúc màu trắng sáng với đỉnh mạ đồng vàng của Tháp Hoà Bình, mô phỏng lại hình dáng của Tháp Niết Bàn (Stupa of Nirvana) nằm trong bộ Như Lai Bát Tháp (Eight Great Stupas) của Phật giáo, lúc này đang vươn mình giữa trời trong cao xanh thăm thẳm:

Bước lên trăm bậc đá trắng, du khách sẽ được chiêm ngưỡng rõ hơn các trang trí ở 4 phía thân tháp hay chính là 4 sự kiện trọng đại trong đời của Đức Phật Thích Ca (Tứ Động Tâm):

– Lâm Tì Ni (Lumbini) nơi sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha):

– Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya) nơi Phật đắc đạo:

– Lộc Uyển (Sarnath) nơi Phật thuyết pháp lần đầu tiên:

– Câu Thi Na (Kusinara) nơi Phật nhập Niết bàn:

Nhưng đẹp nhất, lớn nhất và ấn tượng nhất vẫn là bức tượng Phật thuyết pháp với tay ấn chuyển pháp và nét mặt hiền từ được người Nhật xây dựng theo phong cách riêng của họ không lai tạp với hình tượng Phật Thích Ca của Ấn Độ, Tây Tạng, hay Trung Quốc. Tôi nhớ ra mình đã từng nhìn thấy hình ảnh này trong câu chuyện Chim Lửa của Osamu Tezuka, đã lâu lắm rồi …

Nhưng World Peace Pagoda không chỉ hấp dẫn du khách bởi kiến trúc Tháp Hoà Bình mà đây còn điểm ngoạn cảnh nhìn xuống toàn cảnh hồ Phewa và nhìn sang những đỉnh núi trắng của dãy Himalayas.

Lòng chảo Phewa phía dưới chân đồi trở nên xanh kỳ lạ với màu xanh của nước hồ, màu xanh của cây lá, và cả màu xanh của trời:

Cận cảnh một mép bờ hồ:

… Có tiếng động cơ ù ù trên cao, ngước lên chúng tôi gặp 2 máy bay cá nhân nhỏ đang lượn trên bầu trời Pokhara ngang qua World Peace Pagoda. Đây là môn thể thao Microlight Flights khá thịnh hành ở Pokhara, còn giá cả thì đắt kinh người (vài trăm EUR cho nửa tiếng bay!)

Ngắm cảnh và chụp ảnh chán chê, chúng tôi leo xuống đồi, tạm biệt ngọn đồi World Peace Pagoda và những màu xanh kỳ ảo để tiếp tục đến với khu phố cũ Old Pokhara.

b) Old Pokhara:

LonelyPlanet giới thiệu Old Pokhara (hay Old Bazaar) như 1 điểm đến để gần gũi với cuộc sống của người dân Nepal trước khi bị thương mại hoá bởi khách sạn và nhà hàng phục vụ du lịch nhưng bản thân tôi thì không nhận thấy vậy. Old Pokhara hay khu phố cũ Pokhara giờ là sự nhập nhằng giao thông, bụi bặm đường sá, và mai một văn hoá. Anh tài xế cho chúng tôi biết giờ người ta ít đến Old Pokhara hơn vì chính quyền thành phố không thành công trong việc bảo tồn các khu nhà cổ, nếu muốn tìm hiểu về kiến trúc Newari thì nên đến thủ đô Kathmandu và các vùng phụ cận Kathmandu sẽ xem được nhiều hơn.

Vài hình ảnh về Old Pokhara lúc gần trưa:

Bên trong khuôn viên các khu nhà này thường là sân lớn và nhiều gia đình quần tụ, cũng hao hao như các khu nhà tam gian hay gặp vùng đồng bằng Bắc Bộ với nhiều thế hệ sống chung:

Không ấn tượng với những dãy phố Old Pokhara, chúng tôi lại bắt taxi chạy thêm 15′ nữa ghé thăm đền Bindabasini Temple của đạo Hindu, cũng là điểm đến cuối trong buổi sáng nay.

c) Bindabasini Temple:

Xây dựng từ thế kỷ 17, trải qua nhiều lần tôn tạo và làm mới, đền Bindabasini là 1 đền thờ quan trọng ở Pokhara thờ nữ thần 8 tay Durga – biểu tượng sức mạnh của nữ giới đạo Hindu. Đền nằm trên 1 quả đồi thấp và được người dân địa phương đến cúng lễ rất đông.

Theo đoàn người đến viếng đền, chúng tôi cũng leo lên thăm quan; vì không phải là người theo đạo Hindu nên tôi chỉ đứng phía ngoài ngoạn cảnh đền. Một đặc điểm dễ nhận ra là kiến trúc khu đền này khá đơn giản và tương tự nhau, màu sắc đơn điệu không toát lên được vẻ trang nghiêm và ý nghĩa thứ bậc, một phần cũng là vì khách du lịch ít ai biết tiếng Nepal hay Hindi để mà tìm hiểu:

Những khuôn mặt trẻ thơ tôi gặp theo gia đình đi lễ:

Thấy tôi chụp ảnh này, bà mẹ đề nghị tôi chụp vài tấm kỷ niệm cho gia đình họ, nhưng bà quên nói đấy là đại gia đình chứ không phải là gia đình nhỏ! Hỏi ra mới biết họ đều là người Ấn Độ mới qua Nepal du lịch và đi lễ dịp Tihar (Lễ Ánh Sáng) của đạo Hindu:

4. Pokhara – Ngẫu hứng Trưa:

Tạm biệt gia đình người Ấn, chúng tôi lúc này đã đói cồn cào sau cả buổi sáng ngược xuôi nên bắt xe chạy về phố mới để ăn trưa. New Pokhara lúc này đã sầm uất náo nhiệt hơn, cửa hàng cửa hiệu mở ra buôn bán nhìn rất thích mắt ^^

Giá cả các loại bánh này khá rẻ nhưng ăn ngon tuyệt, tôi mua 4 cái hết 210 NPR tức là 3 USD hay 60,000 VND! đến giờ nhắc lại vẫn còn thòm thèm …

Chúng tôi chọn ăn trưa ở 1 quán ngay mặt đường có không gian bài trí rất đẹp cả trong lẫn ngoài: nhà hàng Once Upon A Time. Nếu sau này có bạn đọc nào ghé chơi Pokhara nhớ thử món ăn ở quán này bởi vị trí, phong cách phục vụ, chất lượng món ăn và đặc biệt là giá cả không có điều gì phải phàn nàn!

Phía ngoài nhà hàng:

Phía trong nhà hàng:

Và bữa ăn thịnh soạn phong vị Ấn Độ (chicken masala + cơm gạo dài) và Nepal (Nepali Set Lunch) kèm theo trà chanh nóng thoạt trông đã khó kìm chế được 😀 Một bữa ăn 2 phần như thế này có giá là 800 NPR, tương đương với 12 USD.

Phía trước nhà hàng Once Upon A Time là tán cây bồ đề lớn được treo rất nhiều cờ ngũ sắc Phật giáo. Dưới tán cây này chúng tôi gặp một người Tạng sinh ra ở Lhasa và sau này chuyển đến Nepal sinh sống đã vài chục năm, có lẽ là cùng thời đoạn năm 58 khi Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đi lưu vong khỏi Tây Tạng.

Sau bữa trưa no say, chúng tôi đi thăm một khu làng người Tạng ở Pokhara. Xung quanh Pokhara có 2 làng lớn mà người Tạng di cư từ Tây Tạng sang Nepal sống tập trung là: Tashi Palkhel ở phía Bắc, và Tashi Ling ở phía Tây Nam. Nơi đây cũng là nguồn sản xuất các mặt hàng giả cổ theo phong cách Tạng để bán cho du khách đến thăm Nepal nói chung và Pokhara nói riêng. Từ sau chuyến đi Tây Tạng mùa hè, tôi luôn có ấn tượng sâu đậm với những gì đến từ cao nguyên Tây Tạng huyền thoại, đó là lý do vì sao tôi ghé thăm Tashi Palkhel. Đường vào Tashi Pakhel dễ đi, chỉ vài cây số từ khu phố mới Pokhara, chúng tôi đặt chân vào làng lúc này đang yên tĩnh sau giờ nghỉ trưa:

Nếu như bạn có thời gian và hứng thú sưu tầm quà Tây Tạng thì Tashi Pakhel là lựa chọn số một trong Pokhara, ở đây bạn không gặp cái huyên náo ồn ào của những người bán hàng Ấn Độ, không có ai chèo kéo săm soi, bạn thả sức ngắm nghía lựa chọn và trò chuyện với người bán hay chính là những người tự tay làm ra các sản phẩm này:

Và giữa nhà tất nhiên sẽ là quốc kỳ Tây Tạng cùng ảnh của Lạt Ma Tenzin Gyatso như muôn năm nay chưa bao giờ thay đổi:

Đi sâu vào làng, chúng tôi gặp trường học, bệnh viện, sân bóng, và chợ – một quần thể nhỏ và sinh động người Tạng đã dựng lên để sống lại cuộc đời nơi đất khách:

Nổi bật nhất giữa Tashi Pakhel là tu viện Jangchub Choeling rực rỡ với kiến trúc điển hình:

Chính điện của tu viện màu sắc bắt mắt với kiến trúc nóc theo phong cách Tây Tạng trang trí bằng biểu tượng quen thuộc của Phật giáo: 2 con hươu chầu bên bánh xe Pháp. Phía trước sân là dãy đại kỳ, bên hông là khu tiếp đón khách du lịch:

Tu viện Jangchub Choeling không thu phí tham quan, du khách đến đây được thoải mái chụp hình ^^

Bên trong chính điện là sự trang nghiêm tĩnh mịch với tông màu mạnh mẽ phô trương mà tôi từng nhiều lần diện kiến. Nhưng chưa lần nào tôi bước vào một gian điện thờ Tây Tạng mà vắng bóng du khách như lần này. Có lẽ tôi cũng không tưởng tượng được rằng ở 1 ngôi làng nhỏ bé xa xôi giữa vùng ngoại ô Pokhara của đất nước Nepal còn nghèo nàn lạc hậu, tôi gặp lại những hình ảnh đẹp mê hồn về Phật giáo, những bức tượng thân của Phật Thích Ca (Shakyamuni), Bạch Đa La (White Tara), Phật Quán Âm nghìn tay mười một mặt (Avalokitesvara), những bức ảnh của Đạt Lai Lạt Ma và Ban Thiền Lạt Ma nghiêm cẩn trên bệ thờ… Xin gửi đến bạn đọc loạt ảnh tôi may mắn chụp được trong chính điện của Jangchub Choeling:

Và cả những vật dụng được dùng trong giờ giảng kinh tranh tụng:

Tôi mải mê chụp ảnh và tận hưởng không gian một mình, đến khi trở ra thì có nhà sư của tu viện đến đóng cửa chính điện:

Rời chánh điện, chúng tôi ghé vào ngôi điện nhỏ xây bên cạnh, trong là vòng xoay kinh luân khổng lồ giữa 4 phía tường bao có nghìn bức tượng Phật rất sống động. Nếu như ai đã có dịp viếng thăm Tây Tạng sẽ nhận ra nét thân quen này. Ở các tu viện như Sera Monastery, Lhasa hay Tashilhunpo, Shigatse luôn có các bức tranh tường mural hoạ hình Phật trong hàng nghìn tư thế pháp ấn và thủ ấn khác nhau; còn ở đây tôi bắt gặp những bức tượng nhỏ bằng đồng đặt trên giá nhiều tầng thay vì tranh vẽ:

Chúng tôi đi xoay kinh luân 3 vòng; trên nóc kinh luân có 1 thanh gậy, khi đi hết 1 vòng gậy sẽ đánh vào chuông nhỏ trên trần tạo ra tiếng kêu đinh đang ^^

Phía sau khu chính điện là khu nhà ở của tăng chúng tu học bên trong Jangchub Choeling, nhìn sơ cứ nghĩ là ký túc xá sinh viên 😀

Thăm thú Tashi Pakhel đã quá lâu, chúng tôi trở ra để tiếp tục hành trình, kế hoạch trong buổi chiều tối nay là lên Sarangkot – khu làng trên núi của Pokhara để sáng mai đón mặt trời lên và thưởng ngoạn không khí vùng cao. Trước khi đi, tôi còn kịp mang theo khoảnh khắc quý giá – những nụ cười người Tạng chào đón khách phương xa:

Con đường chạy lên Sarangkot đi qua một khúc quanh nhìn ra bờ sông mà người tài xế chỉ cho chúng tôi có tên là ‘White River‘, bắt nguồn từ những đỉnh núi xa xôi trong dãy Himalayas. Chúng tôi dừng lại vài phút hít hà cái mát lạnh tinh khiết thổi lên từ khúc sông và ngắm nhìn người dân Nepal quần tụ bên sông:

Dọc bờ sông trắng nắng chang chang nhưng dường như không ảnh hưởng mấy đến các bạn trẻ Nepal đang lần lượt kéo ra đây tâm sự mỗi lúc một đông 😀

Đến lúc tạm biệt bến sông, chúng tôi tiếp tục chạy lên Sarangkot, cũng vừa là kết thúc phần 1 ở đây và xin hẹn bạn đọc trong phần du ký tiếp theo: Nồng nàn Sarangkot

Tây Tạng Du Ký – Ngày 11: Taer Monastery

Sáng ngày 11 chúng tôi dậy không vội vã, hôm nay là ngày cuối trên chuyến hành trình ghé thăm cao nguyên 🙂 Sau khi ăn sáng, cả đoàn rời khách sạn để đi thăm tu viện Hoàng Giáo lớn nhất Thanh Hải: Taer Monastery, nằm ở thị trấn Hoàng Trung (Huangzhong) cách Tây Ninh 26km về phía tây nam. Trời Thanh Hải hôm nay vẫn nhiều mây, không khí se se lạnh tựa như đầu thu! Xe bon bon chạy, cô hướng dẫn viên du lịch người gốc Thành Đô say sưa kể truyện về mảnh đất Thanh Hải và địa danh mà chúng tôi sắp ghé thăm …

1. Lan man lúc chạy xe:

Phật giáo Đại thừa Mật tông Tây Tạng sở dĩ đạt được những thành tựu rực rỡ như ngày nay là trải qua quá trình tôi luyện hun đúc chọn lọc nghìn đời mỗi khi nhắc đến người ta không thể quên những cái tên huyền thoại theo dòng thời gian. Trong đó nổi bật lên 1 nhà cải cách lỗi lạc, người đã có công xiển dương Phật giáo, hợp nhất Tăng chúng, vạch lại con đường tu học nghiêm cẩn, để từ đó xây dựng tông giáo lớn nhất cao nguyên Thanh-Tạng. Không ai khác chính là đại sư Tông Khách Ba (Tsongkhapa), sư tổ của phái Cách Lỗ (Gelugpa Sect). Người đời sau đến thăm Tây Tạng thường ghé những tu viện lớn như Cách Đăng (Ganden Monastery), Sắc Nhạ (Sera Monastery), Triết Phong (Deprung Monastery), Trát Thập Luân Bố (Tashilhunpo); những nơi này luôn có các gian điện thờ vinh danh ông. Bài viết hôm nay xin đưa bạn đọc xuôi ngàn cây số về lại 1 tu viện khác xa xôi hơn nằm trong vùng Thanh Hải, tu viện Tháp Nhĩ (Taer Monastery), để tìm hiểu về một giai đoạn khác của cuộc đời Tông Khách Ba – những tháng năm niên thiếu.

Đại sư Tông Khách Ba sinh năm 1357 ở vùng Tông Khách, Thanh Hải, Tây Tạng và được tin là hoá thân của trí huệ Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi (Manjusri); khi đó nhắm vào thời nhà Nguyên đang chiếm quan nội, còn Phật giáo Tây Tạng đang trong giai đoạn kết thân chính trị với hoàng tộc. Lúc đản sinh ngài Tông Khách Ba cũng có nhiều truyện dị thường được chép lại. Trong lúc đậu thai 9 tháng, rất nhiều điềm lành xuất hiện trong nhà và quanh vùng. Ngày 28/10/1357, khi hư không thanh tịnh an lành thì ngài hạ sanh, tướng mạo lọt lòng đã an nhiên phi phàm, dự báo sau này sẽ có cơ duyên hộ trì Phật pháp làm lợi chúng sinh.

Đoạn nhau thai mẹ ngài đem chôn xuống đất, từ đó mọc lên một tàng cây lớn xum xuê 10 nghìn lá mà mỗi lá đều có chữ Văn Thù, nên người quanh vùng đều rất kính trọng gọi đó là cây Cổ Lai Chiên Đàn (tức là cây có trăm ngàn tượng Phật). Hàng năm mùa thu lá rụng, người hành hương đến đây đều nhặt lá cây đem về. Du khách ngày nay đến Thanh Hải thăm tu viện Taer cũng sẽ gặp cây này trong khuôn viên. Tương truyền con số 10 nghìn lá của cây Chiên Đàn chính là khởi nguồn của việc làm 10,000 lần nghi lễ Ngũ thể nhập địa của Tăng chúng và người mộ đạo sau này 🙂

Lên 17 tuổi, năm 1373, Tông Khách Ba rời quê nhà để vào Lạp Sát (Lhasa) tu học, từ đó mở đầu giai đoạn ngài bắt đầu lãnh giáo những tinh hoa của tông phái Phật giáo Tây Tạng khi đó gồm cả Ninh Mã (Nyingma Sect), Ca Nhĩ Cư (Kagyupa Sect), và Tát Ca (Sakya Sect). Mẹ ngài khi cuối đời có viết thư nhắn gọi Tông Khách Ba về, nhưng vì đường xá xa cách, lại vướng việc học và truyền đạo mà ngài không về được. Tông Khách Ba đã hoạ hình mình trong tranh rồi gửi về cho mẹ an tâm. Đồng thời trong thư gửi mẹ, ngài viết: “… con nay ở xa không về được quê nhà, xin mẹ dựng cho con 1 bảo tháp, thân không về được nhưng lòng hướng về …”. Gia đình ông y lời đã cho xây 1 stupa ngay cạnh khuôn viên tán cây Chiên Đàn. Mẹ ông mất mà không kịp gặp mặt con, cũng chưa kịp nhìn thấy những thành tựu lớn lao mà con trai bà dùng cả cuộc đời mình gây dựng được cho Phật giáo Tây Tạng. Còn đại sư cũng viên tịch vào năm 1419. Đúng 200 năm sau ngày sinh của Tông Khách Ba, năm 1557, chúng giáo tăng ni đệ tử môn đồ của Hoàng Giáo do con trai bà kiến lập uống nước nhớ nguồn đã trở lại Thanh Hải, dựng lên trên nền đất cũ một tu viện lớn bao bọc ngoài stupa xưa. Đó chính là tu viện Tháp Nhĩ (Taer Monastery), 1 trong 6 ngôi đại tùng lâm quan trọng của Cách Lỗ tông trên toàn Tây Tạng. Tên tu viện theo tiếng Tạng có nghĩa là stupa có trước, tu viện xây sau, độc đáo duy nhất khác hẳn phong cách mọi tu viện khác (thường xây tu viện xong mới dựng các stupa bên trong). Ngoài ra do sự tích cây 10,000 lá trong tu viện mà nơi đây còn có tên là Thập Vạn Phật (Kumbum Monastery).

Nhiều trăm năm sau, du khách đến Thanh Hải vẫn được nghe kể lại câu chuyện xúc động này, lại được đưa vào khuôn viên tu viện để xem cây Chiên Đàn (vẫn xanh tốt cho đến ngày nay) và chiêm bái stupa cổ mà mẹ Tông Khách Ba đã cho dựng để gửi gắm tấm lòng của người con xa xứ, càng thêm ngưỡng mộ bề dày văn hoá tâm linh của người Tạng trải bao thế hệ vẫn rực rỡ mê đắm vượt trên thách thức của thời gian 🙂

2. Tu viện Tháp Nhĩ:

Câu chuyện trên tham khảo nguồn từ Đại tạng kinh Việt Nam, Vạn Phật Đảnh, và dựa theo lời kể của hướng dẫn viên du lịch ở Thanh Hải mà kính bút chép ghi; mọi sơ sót ngoài ý muốn mong được bạn đọc lượng thứ. Lan man kể cũng đã dài, xin gửi bạn đọc vài hình ảnh của tu viện này.

Cổng vào chánh Đông của tu viện Taer Monastery:

Bước vào khuôn viên tu viện, du khách có thể dễ dàng nhận ra sự pha trộn phong cách Hán-Tạng rõ rệt trong bố cục và màu sắc toàn viện.

Từ giữa sân lớn của tu viện có thể thấy trước mặt là tháp mái vàng của Hộ Pháp Điện (Dharma Protector Temple):

Đối diện Hộ Pháp Điện là cửa vào lớn của tu viện, nhưng không thấy du khách qua lại, có lẽ đang trong quá trình tu sửa. Đây cũng là chỗ mua vé để vào thăm các điện thờ trong khuôn viên Taer Monastery. Vé vào cửa in đẹp và bên trong là đĩa CD loại nhỏ chứa các thông tin giới thiệu về tu viện ^^

Phía bên phải của sân là Như Lai Bát Tháp (8 Great Stupas) linh thiêng của người Tạng. Người hành hương đến đây đều bái lạy các stupa này trước khi đi vào thăm các khu điện:

Đây là 1 quần thể đầy đủ cả 8 stupa trong tín ngưỡng Phật giáo Tây Tạng kể lại những dấu ấn quan trọng trong cuộc đời của Đức Phật Lịch sử Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni). Chắc hẳn bạn đọc còn nhớ, một trong những kiến thúc stupa quen thuộc này (tháp muôn cửa – stupa of many doors) đã được người Tạng áp dụng tài tình để dựng lên cả 1 tháp lớn giữa trấn Gyantse vùng Tsang và cũng có tên là Thập Vạn Phật tháp (Kumbum, Palkhor Chode Monastery)

Nhác trông màu sắc tô điểm trên stupa có thể nhận thấy các tháp này đều được sơn sửa lại thường xuyên:

Phía xa là cổng vào chánh Tây của tu viện nằm ngay dưới khối 3 stupa trắng, giờ là bãi đậu xe riêng của khách đến thăm tu viện:

Theo đường xi măng sạch sẽ, chúng tôi bắt đầu đi vào khu điện đầu tiên: Hộ Pháp Điện, nơi có mural và tượng thờ của các vị Thiên Vương và hộ pháp nhà Phật. Điện này còn được biết đến với tên Tiểu Kim Ngoã Điện (Lesser Hall of Golden Roof):

Ở cửa vào mỗi điện là máy đọc thẻ, du khách dùng chính vé vào cửa để đưa qua máy quét trước khi vào, phương thức này khá hiện đại và là lần đầu tiên chúng tôi gặp khi đi du lịch Tây Tạng 😀 Việc chụp ảnh bên trong mỗi toà điện của tu viện Taer bị cấm rất ngặt nên hầu như ít ai có ảnh chụp kiến trúc bên trong của mỗi điện (>_<). Trên bốn phía tường bao của Tiểu Kim Ngoã Điện có treo rất nhiều đầu bò, linh dương, ngựa trắng được bảo quản tốt theo thời gian, không rõ bí quyết nhồi thú của người Tạng như thế nào mà các con vật này nhìn đều thật và sống động!

Ra khỏi Tiểu Kim Ngoã Điện là đường sang khu điện thứ hai, nơi thờ phụng mẹ của ngài Tông Khách Ba mà người hành hương tìm đến để bày tỏ lòng thành kính. Trên đường du khách sẽ bắt gặp stupa Niết bàn (Stupa of Nirvana) – stupa duy nhất trong Như Lai Bát Tháp không có 4 tầng Tứ diệu đế ở đáy, tượng trưng cho sự viên mãn tu thành chánh quả:

Du khách tranh thủ chụp ảnh với kinh luân đồng lớn ngay dưới chân stupa:

Bên trong khu điện thứ 2, chúng tôi bắt gặp tảng đá dựng ngay giữa vườn, tương truyền là phiến đá mà mẹ đại sư Tông Khách Ba thường dựa vào khi có mang ngài. Trên phiến đá bóng nhẫy dính chi chít các đồng tiền xu và tiền giấy của khách thập phương, hỏi ra mới biết người dân nơi đây đã bôi rất nhiều mỡ bò Yak lên đá, nhờ thế mà tiền cúng có thể dính vào được 😀

Vì không được chụp ảnh, chúng tôi bái lạy các tượng thờ rồi nhanh chóng ra khỏi điện, điểm đến tiếp theo là Đại Kim Ngoã Điện (Great Hall of Golden Roof). Một vài hình ảnh khi đi bộ trong tu viện:

Khi đi qua khu học viện của Taer Monastery, chúng tôi bắt gặp những nhà sư còn rất trẻ trong màu áo tu đỏ thắm với túi da, điện thoại, giày tây … Được biết có tổng cộng 4 học viện lớn: Hiển Tông học viện, Mật tông học viện, Thời luân học viện, và Y học viện nằm rải rác trong khuôn viên:

Trước khi bước đến khu Đại Kim Ngoã Điện, cũng là khu vực trung tâm của toàn tu viện, du khách sẽ đi qua sân rộng của Đại Kinh Đường (Great Hall of Meditation), nơi có rất nhiều các nhà sư trẻ và người Tạng đang làm lễ ngũ thể nhập đia:

Quy mô Đại Kinh Đường cực lớn, kiến trúc nổi bật phong cách Tây Tạng với những biểu tượng cát tường Phật giáo bằng vàng rực rỡ trên nóc:

Là cờ cuộn Phật giáo (Dhvaja):

Bánh xe Pháp (Dharma Whee) và cặp hươu vàng chính giữa nóc điện:

Bên trong Đại Kinh Đường khá tối nhưng du khách vẫn cảm nhận được sự hoành tráng toát lên từ bốn phía điện, trên các kệ là hàng nghìn tượng Phật nhỏ soi sáng bởi 1000 ngọn đèn mỡ bò Yak đặt dọc theo tường thờ phụng mỗi vị. Chính giữa điện là bức tượng Quán Thế Âm Bồ Tát (Avalokitesvara) lớn, bên cạnh là tượng thờ của Ban Thiền Lạt Ma đời thứ 9 và thứ 11 – một nét tương đồng với tu viện Tashilhunpo ở Shigatse! Ra khỏi Đại Kinh Đường, du khách sẽ theo cửa hông để đi sang các khu điện đằng sau:

Phía sau Đại Kinh Đường là quần thể quan trọng nhất của tu viện Tháp Nhĩ bao gồm 4 khu vực: Bếp lớn (The Great Kitchens) bên trong có 3 vạc đồng để nấu ăn cho Tăng chúng — gian này không mở cửa cho du khách tham quan, điện thờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni), điện thờ Phật tương lai Di Lặc Bồ Tát (Future Buddha Maitreya), và quan trọng nhất chính là Đại Kim Ngoã Điện (Great Hall of the Golden Roof) ^^ 4 khu này quần tụ xung quanh cây Cổ Lai Chiên Đàn nằm ngay trước Đại Kim Ngoã Điện. Du khách ai cũng thích thú không gian rực rỡ của khu vực này nhưng đáng tiếc không ai được chụp ảnh 😦

Cây Cổ Lai Chiên Đàn vẫn xanh um giữa sân và được quây bảo vệ bởi hàng rào gỗ thấp, người Tây Tạng làm lễ bái lạy ở đây rất đông. Dọc theo các bức tường trong khuôn viên là những chiếc kinh luân cổ kích thước to như người thật quay trên những giá gỗ đen nhánh bóng nhẫy dấu tay. Phía trên nóc Đại Kim Ngoã Điện là mái vàng rực rỡ, bên trong điện là stupa mà mẹ Tông Khách Ba đã xây cho ngài năm xưa. Qua thời gian được trùng tu nâng cấp, tháp nay phủ bạc cao đến 11m. Bước vào trong điện, chúng tôi trật tự dò từng bước đến dưới chân stupa để ngẩng đầu chiêm bái Phật tích quý giá nhất Thanh Hải, trong đầu vẫn ngân nga câu nói của người khai tông lập phái Hoàng Mạo Giáo viết thư gửi mẹ … “thân không về được, nhưng lòng hướng về” … vậy mà đã hơn 500 năm rồi đấy! Cầm lòng không chụp ảnh, chúng tôi rời khỏi Đại Kim Ngoã Điện, tiếp tục con đường leo ngược dốc của tu viện Taer đi sang khu tiếp theo.

Tuy xây dọc theo sườn núi, tu viện Taer không quá dốc, đường đá rộng rãi và thoải mái, chính phủ Trung Quốc chắc đã đổ vào đây rất nhiều tiền để tôn tạo và quy hoạch qua nhiều thời kỳ:

Khu điện cuối cùng chúng tôi ghé thăm thực ra là gian trưng bày độc đáo chỉ có ở Thanh Hải: tượng làm bằng bơ bò Yak (Hall of Butter Sculptures), vốn là 1 nghệ thuật tự hào của các nghệ nhân tăng sĩ trong tu viện Taer nổi danh toàn vùng Thanh-Tạng từ thế kỷ 16 đến nay:

Được biết các nghệ nhân này đều phải bỏ ra nhiều tháng công sức để nhào nặn và làm thành các bức tượng để kịp tham dự Tibetan Butter Sculpture Festival (diễn ra trung tuần tháng 2 hàng năm) và tuỳ theo chủ đề của mỗi năm mà sẽ có những tượng hay bức hoạ dạng lớn được làm, ví dụ làm tượng đại sư Tông Khách Ba, tượng Đạt Lai Lạt Ma thứ 5, hay câu chuyện Văn Thành công chúa vào Tây Tạng … Chủ đề năm nay là Phật tương lai Di Lặc (Future Buddha Maitreya). Vì không được chụp ảnh trong gian điện nên mượn tạm 1 tấm trên mạng để bạn đọc hình dung rõ ràng hơn về công phu và tầm vóc các bức tượng làm hoàn toàn từ bơ bò Yak với độ chinh xác và tinh tế bất ngờ:

Ngay phía sau bức tượng này sẽ là bức tượng đã tham gia dự thi năm ngoái 😀 cả 2 bức tượng đều đươc đặt trong lồng kính giữ lạnh khi chúng tôi đến thăm, để chống chọi với cái nắng ngày hè có thể làm chảy các tác phẩm.

Rời khỏi Sculpture Hall, chúng tôi theo con dốc thoải trở ra ngoài cổng, tranh thủ ghi lại những khoảng khắc trước khi rời tu viện Tháp Nhĩ:

Và những mái vàng lấp lánh bên trong tu viện:

Tạm biệt tu viện Tháp Nhĩ và câu chuyện về tuổi thơ của đại sư Tông Khách Ba, chúng tôi ai cũng tấm tắc vì đã có dịp hiểu thêm những điểm độc đáo của vùng Thanh Hải mà trước giờ ít nghe nhắc đến 🙂 Ra đến cổng chánh Đông tu viện, chúng tôi tranh thủ đi dạo nhâm nhi món khoai nướng trước khi theo xe nhắm hướng sân bay trực chỉ:

Từ sân bay Tây Ninh, chúng tôi đáp chuyến bay chiều đi Thành Đô và ngay trong đêm đó bay ra khỏi Tứ Xuyên, tạm biệt Trung Hoa và cũng là kết thúc chuyến đi khám phá phía Tây lần này 🙂 Ngồi trên máy bay chúng tôi vẫn còn ngâm ngợi mãi, nhìn biểu tượng in trên tờ tiền 50 RMB mà không khỏi bâng khuâng về 1 miền đất vừa thật gần không thể tách rời vừa xa xôi như là ảo mộng …

Chuyến bay đêm ai cũng đã say ngủ, nhưng tôi biết có những đôi mắt vẫn mở chong chong nhìn đèn tín hiệu chớp ngoài cánh máy bay trong mây mù giữa lưng chừng trời, hay bởi lòng vẫn còn đau đáu về những điều tuyệt diệu được thấy qua ở phía dưới kia … cao vài nghìn mét trên mặt nước biển, xa trong dãy Hi Mã Lạp Sơn, sâu giữa những hồ nước lớn và rừng cây … một bức tranh Phật giáo tuyệt luân toàn cảnh vẫn trường tồn qua không thời gian … Bài viết ngày 11 đến đây là kết thúc, xin hẹn bạn đọc trong bài cuối – Khúc vĩ thanh Tây Tạng.

Tây Tạng Du Ký – Ngày 6: Tsang (P2)

3. Tu viện Tashilhunpo ở Shigatse:

Nhật Khách Tắc (Shigatse) là điểm dừng chân thứ 2 của chúng tôi trong vùng Tsang. Nằm ở độ cao trung bình 3900m so với mực nước biển, là thủ phủ của Tsang và cũng là thành phố lớn thứ 2 sau Lhasa, Shigatse giữ vai trò đặc biệt về mặt chính trị xã hội của toàn Tây Tạng. Nhắc đến Shigatse là nhắc đến đại tu viện Trát Thập Luân Bố (Tashilhunpo Monastery) – cung điện của các đời Ban Thiền Lạt Ma (Panchen Lama) người giữ vai trò quan trọng thứ hai trong cộng đồng chính-giáo Tây Tạng.

Sau khi rời trấn Giang Tử (Gyantse), xe đưa chúng tôi vượt 90km đường đến với Shigatse, khi đến nơi đã gần 4h chiều; vì không muốn nấn ná nên chúng tôi đi thăm tu viện Tashilhunpo luôn để sáng hôm sau lên đường về Lhasa. Tu viện Tashilhunpo được xây năm 1447 bởi Đạt Lai Lạt Ma thứ 1 Căn Đôn Châu Ba (Gendun Drup), môn đệ của đại sư Tông Khách Ba (Tsongkhapa); dần dần được các đời Ban Thiền Lạt Ma thứ 4 và thứ 5 mở rộng. Tashilhunpo Monastery là 1 trong 6 đại tu viện nổi tiếng của dòng Hoàng Mạo Cách Lỗ (Gelugpa Sect), 5 đại tu viện kia là: Sắc Nhạ – Sera Monastery (Lhasa), Triết Phong – Deprung Monastery (Lhasa), Cách Đăng – Ganden Monastery (Lhasa), Lạp Bốc Lăng – Labrang Monastery (Gansu), và Tháp Nhĩ – Ta’er Monastery (Qinghai). Xây dựng trên diện tích hơn 300km2, tu viện Trát Thập Luân Bố ngày nay là nơi sinh sống và tu học của khoảng 800 Lạt Ma và cũng là điểm thu hút khách du lịch ghé thăm ở trung tâm Shigatse.

Khác với dự đoán ban đầu, cổng vào tu viện nhỏ và có phần kém hoành tráng, ấn tượng chỉ là bãi đỗ xe rất to và các đoàn khách du lịch Trung Quốc đứng chen chúc dưới trời nắng để mua vé vào cửa:

Bước vào Tashilhunpo là khoảng sân rất rộng, hai bên là những dãy nhà thấp, có một vài nhóm người đang dọn dẹp chuẩn bị cho sự kiện Ban Thiền Lạt Ma thứ 11 sẽ từ Bắc Kinh đến Tây Tạng. Nếu người viết không nhầm, sự kiện này trùng với dịp ‘Phật sống lên ngôi ở Tây Tạng‘ diễn ra sau đó không lâu đầu tháng 7/2010.

Nhìn vào kiến trúc tu viện có 4 toà lớn, đi từ trái sang phải: toà tháp cao nhất bên trái tường đỏ mái vàng là điện thờ Di Lặc Bồ Tát (Maitreya Temple hay Jamkhang Chenmo), sau đó là điện Sisum Namgyel mái vàng có lăng mộ của Ban Thiền Lạt Ma thứ 10, toà tiếp theo là toà Kundun Lhakhang là khu lăng mộ của Ban Thiền Lạt Ma thứ 4, và toà cuối cùng bên phải là Tashi Langyar lưu giữ lăng mộ của Ban Thiền Lạt Ma từ thứ 5 đến thứ 9. Bên phải toà Tashi Langyar có thể nhận ra bức tường trắng lớn (Thangka Wall) là nơi treo các thangka khổng lồ vào các dịp lễ hội. Phía trước điện Tashi Langyar là khu Kelsang Temple Complex có sân lớn (Great Courtyard) bao bọc bởi các bức tường với mural hoạ hình 1000 Phật Thích Ca trong các tư thế ấn khác nhau:

Phía sau toàn bộ tu viện là con đường kora trên sườn đồi treo vô vàn những chiếc kinh luân bằng đồng:

Từ năm 1980, Tashilhunpo chính thức mở cửa đón khách tham quan và được xếp hạng khu du lịch AAAA cấp quốc gia:

Một vài hình ảnh những ngõ nhỏ bên trong tu viện:

Kiến trúc các khu nhà khá giống nhau với tường đá vôi trắng, cửa sổ và cửa chính viền đen, hiên nhỏ phủ vải trắng, mái bằng màu đỏ sậm. Các khu nhà này là nơi sinh hoạt của Tăng ni và có vẻ không mở cửa cho tham quan:

3 stupa lớn nhìn thấy khi đi bộ trong tu viện:

Toà tháp màu đỏ du khách sẽ gặp đầu tiên là điện Jamkhang Chenmo thờ Phật tương lai (Future Buddha) Di Lặc Bồ Tát (Maitreya) như đã có dịp giới thiệu với bạn đọc trong phần Văn vật Phật giáo Tây Tạng

Bên trong điện là tượng Phật Di Lặc ở tư thế ngồi được đúc vào năm 1914 bởi Ban Thiền Lạt Ma thứ 9; bức tượng này là tượng Phật Di Lặc lớn nhất thế giới: cao 26m, đúc từ 150,000kg đồng và sử dụng hơn 300kg vàng để mạ, riêng mỗi ngón chân của tượng đã dài hơn 1m! Sở dĩ có chi tiết này vì du khách khi bước vào điện sẽ gần như choáng ngợp bởi tầm vóc đồ sộ của tượng, khi bắt đầu đi quanh chân tượng thì nhìn rõ nhất chính là các ngón chân của Ngài 😀 Bốn phía điện là các tranh tường trang trí hoạ hình Phật Di Lặc đang thiền định trên nền màu đỏ rực rỡ.

Điện Jamkhang Chenmo đang được lát xi măng lại ở sân ngoài, khách du lịch đều bu lại quanh sân vì thu hút bởi quang cảnh lao động của người dân địa phương: nhóm nhân công chia ra 2 đội đứng ở cánh phải và cánh trái, mỗi đội sẽ lần lượt hát trước và tay sẽ theo nhịp dậm chày nện đất, sau một điệu hát sẽ đến đội bên kia. Cứ thế họ nhịp nhàng san đập khoảng sân bêtông sân trước điện. Quang cảnh này chắc là sẽ luôn gặp khi người Tạng xây cất nhà cửa, đồ rằng bài hát của họ cũng là các câu kinh đã được phổ ra thành nhịp ^^

Đặc điểm chung của các điện thờ trong tu viện Tashilhunpo là cấm ngặt chụp ảnh, biển báo phạt đề rõ phía ngoài: 1800RMB cho máy ảnh, 2500RMB cho máy quay nên tất cả không ai dám ho he gì 😀 Sau khi tham quan Jamkhang Chenmo, chúng tôi trở ra và đi bộ tiếp trong Tashilhunpo:

Con đường giữa những bức tường đỏ đưa du khách đến toà điện lớn thứ 2 của tu viện: Sisum Namgyel, bên trong là lăng mộ của Ban Thiền Lạt Ma thứ 10 viên tịch vào năm 1989. Stupa này được làm từ 615kg vàng ròng, trang trí thêm 868 viên đá quý và hơn 240,000 viên ngọc – một trong những stupa vàng cực kỳ quý giá của Tây Tạng. Nhìn phía ngoài toà nhà, du khách sẽ thấy mái đồng mạ vàng rực rỡ của Sisum Namgyel:

Trang trí trên mái là những biểu tượng của Phật giáo tinh xảo và cũng không kém phần phô trương như tượng vàng chim thần Gruda, bánh xe Pháp luân 8 trục bằng vàng có 2 con hươu hai bên, hay cờ chiến thắng Dhvaja cực lớn đúc bằng đồng treo các chuông nhỏ:

Toà điện thứ 3 trong Tashilhunpo mà chúng tôi vào tham quan là Kundun Lhakhang – khu lăng mộ của Ban Thiền Lạt Ma thứ 4, một trong những Ban Thiền Lạt Ma trứ danh nhất của Tây Tạng bởi ông chính là thầy dạy của Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 vĩ đại Lobsang Gyatso. Stupa của Ban Thiền đời thứ 4 là stupa đầu tiên được dựng trong tu viện Tashilhunpo năm 1662 và hoàn toàn không bị hư hại gì sau Cách mạng Văn hoá. Hình ảnh trước cửa điện:

Nếu để ý kĩ bức mural ngay cửa vào của Kundun Lhakhang sẽ thấy 8 tiểu đồng này tay đều cầm 8 biểu tượng cát tường của Phật giáo (Ashtamangala, hay 8 Auspicious symbols of Buddhism):

Tám biểu tượng này lần lượt là:
– [1] Umbrella (Parasol): Dù lọng – tượng trưng cho phẩm cách cao thượng, không tổn hại.
– [2] Two goldfish: Song ngư – tượng trưng cho sự chuyển luân tự do và hạnh phúc
– [3] Conch shell: Tù và – tượng trưng cho những lời truyền dạy tuyệt luân của Đức Phật
– [4] Lotus: Hoa sen – tượng trưng cho sự tinh khiết, đứng trên mọi uế tạp của trần tục
– [5] Treasure Vase (Urn): Bình thánh thủy – tượng trưng cho sự đầy đủ về sức khoẻ, trường thọ, giàu sang, thịnh vượng, và trí tuệ
– [6] Victory banner (Dhvaja): Lá cờ cuộn – tượng trưng cho sự chiến thắng
– [7] Endless Knot: Nút trường cửu – tượng trưng cho sự kết nối của mọi vật
– [8] Dharma Wheel: bánh xe Pháp luân – tượng trưng cho sự xiển dương không ngừng của Phật pháp

Trên các bức tường đỏ của điện Kundun Lhakhang cũng có vẽ 8 biểu tượng này:

Một chi tiết thú vị nữa mà người viết tình cờ khám phá ra khi ngắm nhìn mái của các điện thờ trong Tashilhunpo: toà điện đầu tiên Jamkhang Chenmo là mái bằng không có đầu cong nhô ra ngoài; toà điện thứ 2 Sisum Namgyel có mái đôi, mái thượng trang trí đầu rồng và mái hạ trang trí đầu bút lông sắc nhọn; còn mái đôi của toà điện thứ 3 Kundun Lhakhang ngược lại, mái thượng trang trí đầu bút lông và mái hạ trang trí đầu rồng nhô ra ngoài 😀 Đây có thể dùng làm cách nhận dạng sau khi đã đi thăm Tashilhunpo về và chụp rất nhiều ảnh, cần phân biệt giữa các toà điện với nhau:

Rời khỏi khu lăng mộ của Ban Thiền Lạt Ma thứ 4, chúng tôi lại theo con đường vách đỏ đi tiếp, không quên xoay ống kính hướng về những sắc màu Phật giáo rất thú vị xung quanh:

Tình cờ trong tích tắc khi quay lại nhìn toà Sisum Namgyel, lọt vào khuôn hình là một nhà sư đang đăm chiêu tựa lưng vào cờ chiến thắng Dhvaja trong cái nắng gay gắt cuối ngày trước giờ tu viện đóng cửa:

Xuyên qua 1 con đường hầm nhỏ và tối, du khách sẽ đến được toà điện lớn thứ 4 của tu viện: Tashi Langyar, nơi có lăng mộ của các Ban Thiền Lạt Ma đời thứ 5 đến thứ 9. Toà điện này đã từng bị phá huỷ trong Cách mạng Văn hoá, và được Ban Thiền Lạt Ma thứ 10 cho xây lại năm 1989:

Phía trước Tashi Langyar là khu điện Kelsang (Kelsang Temple Complex), khu điện này bao gồm khám thờ Phật Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni), Quán Thế Âm Bồ Tát (Avalokitesvara), và Đa La (Tara); nhưng bắt mắt hơn cả chính là khu sân chung (Great Courtyard) nằm chính giữa:

Được biết đây là khu vực sân dành cho các Lạt Ma trẻ tu học và tranh luận về giáo pháp; khác với các khu vực sân khác thường ở vườn cây như tu viện Sera hay tu viện Deprung (Lhasa), khu vực sân này bố trí quy củ hơn:

Bao quanh sân là các bức tường rực rỡ sắc đỏ với các bức tranh tường hình Phật Thích Ca Mâu Ni pha trộn phong cách Tây Tạng với thời nhà Minh và nhà Đường của Trung Hoa, vì thế mà các mural trở nên sống động và đa dạng hơn:

Tổng cộng có 1000 hoạ hình của Phật Thích Ca với các ấn (mudra) khác nhau, xen kẽ là 8 biểu tượng cát tường. Ấn Phật giáo là những cử chỉ bằng tay đặc biệt mang những dấu hiệu của Phật tính khác nhau. Ngoài Thủ ấn (các ấn nơi tay) còn có các Khế ấn là những tư thế khác khi cầm ngọc hay tọa thiền … Một số Thủ ấn chính thường gặp: Ấn thiền, Ấn giáo hoá, Ấn chuyển pháp, Ấn xúc địa, Ấn vô uý, Ấn tối thượng bồ đề, Ấn trí huệ vô thượng, Ấn hiệp chưởng … Bạn đọc có hứng thú tìm hiểu về Ấn Phật giáo có thể xem thêm minh hoạ ở đây: Explaination of Mudras

Rời khỏi sân của Kelsang Complex, chúng tôi trở lại sân trước của tu viện Tashilhunpo. Đoạn đường ra khỏi tu viện:

Trong ảnh phía xa là bức tường Thangka có chiều cao tương đương với toà nhà 9 tầng, được xây dựng năm 1468 đời Đạt Lai Lạt Ma thứ 1; vào các dịp ngày 14, 15, và 16 tháng 5 hàng năm (lịch Tây Tạng), bức Thangka khổng lồ sẽ được treo ở đây thu hút hàng vạn người hành hương đến Tashilhunpo để chiêm bái:

Ấn tượng của người viết về Tashilhunpo không nhiều, tuy là nơi Ban Thiền Lạt Ma sinh sống và có các lăng mộ của các đời Ban Thiền Lạt Ma đời trước nhưng Tashilhunpo hoàn toàn không quá hoành tráng như tưởng tượng, việc chụp ảnh cũng bị cấm chặt hơn các nơi khác. Tuy nhiên nếu để ý kĩ, những dấu ấn Phật giáo Đại thừa Mật tông thể hiện bên trong Tashilhunpo rất rõ ràng 🙂 So với những quần thể lớn như cung điện Potala khi du khách không đủ thời gian và tâm trí để quan sát và ghi nhận những chấm phá độc đáo trong kiến trúc cũng như văn vật trên đường du ngoạn thì ở Tashilhunpo hoàn toàn có thể chậm rãi mà khám phá hết. Không khí bên trong tu viện rất trang nghiêm, những khu nhà tường trắng cửa đen và các toà điện tường đỏ mái vàng trăm năm qua đã lưu giữ vô vàn những giá trị văn hoá kết tinh bởi mỗi đời Lạt Ma Tây Tạng. Không phải tự nhiên mà tu viện này trở thành điểm đến hấp dẫn và gần như bắt buộc mỗi khi thăm thú vùng Tsang, đặc biệt cho những ai muốn hiểu thêm về Phật giáo và xã hội Tây Tạng xưa và nay ^^

Đoàn chúng tôi lên xe rời khỏi quần thể tu viện lúc đồng hồ đã chỉ sang 5.30 chiều, ai cũng gần như kiệt sức sau 1 ngày dài di chuyển từ Lhasa đến Shigatse, trên đường đã dừng lại ở hồ Yamdrok-tso, vượt đèo Karola để ngắm đỉnh băng Nojin Kangtsang Glacier, ghé trấn Gyantse để khám phá tháp Thập Vạn Phật Kumbum Stupa, sau là vào tu viện Tashilhunpo ở Shigatse. Điểm dừng cuối cùng trong ngày là Everest Friendship Hotel (địa chỉ: No.12 Deqingpozhang Road, Shigatse), tên cũ là Qomolongma Friendship Hotel. Điều thú vị duy nhất về hotel này là bảng giá! theo Lonely Planet – Tibet thì nhà nghỉ này thuộc loại rẻ và giá bình dân (100RMB-400RMB), nhưng nếu đến trực tiếp nhìn thì không khỏi giật mình: phòng dorm giá chỉ 45RMB còn phòng thường giá trên 2000RMB, riêng phòng sang giá trên 5000RMB 😀 chắc là cố ý trêu đùa du khách!

Bài viết ngày 6 đến đây là kết thúc. Sau bữa ăn tối dở tệ, đêm buông xuống trên Shigatse, thành phố này trở nên tĩnh mịch hơn cả trấn Bayi hay thủ phủ Lhasa tuy thời tiết về đêm không quá lạnh. Ngày mai trong bài viết thứ 7, người viết sẽ rời Shigatse quay lại Lhasa, buổi chiều đi thăm tu viện Sera và buổi tối đi ngoạn cảnh Potala cung giữa nền trời đêm ^^

Tây Tạng Du Ký – Ngày 5: Potala Palace

4. Thăm cung điện Potala:

Rời khỏi Đại Chiêu Tự, chúng tôi hướng đến trái tim Lhasa – cung điện Potala – trong lòng khấp khởi sắp được đặt chân vào hành cung uy nghi nhất, đẹp nhất, ý nghĩa nhất trong mọi chuyến hành hương Tây Tạng. Nếu Jokhang Temple được coi là điểm đến tâm linh Phật giáo thì Bố Đạt La cung có thể coi là viện bảo tàng sống động nhất cho văn hoá Tây Tạng và là biểu tượng quyền lực gắn liền với các đời Tạng Vương và Đạt Lai Lạt Ma. Nhìn trên bản đồ, thủ đô Lhasa gần như được phân thành 2 khu rõ rệt: khu phía Tây tập trung người Hán và khu phía Đông tập trung người Tạng. Tuyến phố lớn Beijing Donglu nối liền 2 khu vực này, chính giữa 2 khu là quảng trường Potala cực rộng và cung điện Potala sừng sững trên ngọn Hồng Đồi tại trung tâm ^^

Về mặt lịch sử, Potala Palace hay Bố Đạt La cung được khởi công từ thời vua Songtsen Gampo nhưng lúc đó mới ở dạng hành cung nhỏ. Đến đời Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 Losang Gyatso thì Potala mới chính thực được chọn làm cung điện của Hoàng Mạo Giáo và nơi đây được kiến thiết lại với quy mô cực lớn, xây cất trong suốt 50 năm mới hoàn thành, tính đến nay đã hơn 6 thế kỷ mà không bị biến động thiên tạo hay nhân tạo nào làm hư hại. Sau này, cùng với sự ra đời của cung điện mùa hè Norbulingka, nơi đây chính thức trở thành cung điện mùa đông của các đời Lạt Ma.

Về mặt kiến trúc, Potala toạ lạc trên đỉnh Hồng Đồi (Red Hill hay Marpori) cao 300m so với mặt bằng thành phố – ngọn đồi được tin là tượng trưng cho Quán Thế Âm Bồ Tát (Avalokiteshvara); là 1 trong 3 ngọn đồi thiêng của thủ đô Lhasa: hai ngọn đồi còn lại là: đồi Chokpori tượng trưng cho Kim Cương Thủ Bồ Tát (Vajrapani), và đồi Pongwari tượng trưng cho Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát (Manjushri).

Nhìn vào chính giữa cung Potala là Hồng Cung (Red Palace), tường đắp màu son đỏ mà theo văn hoá người Tạng đó là biểu trưng quyền lực:

Trên nóc của Hồng Cung là nơi lưu giữ thi hài của các Đạt Lai Lạt Ma:

Bên phải Hồng Cung là Bạch Cung (White Palace) có tường đá trát đất sét trắng, được người Tạng coi là biểu tượng của hoà bình, cũng là nơi sinh hoạt của các Lạt Ma khi còn tại vị. Kiến trúc lưỡng tông Hồng-Bạch này còn áp dụng cho tất cả các cung điện lớn nhỏ khác xây trong Tây Tạng:

Nhìn sang 2 bên ở chánh Tây và chánh Đông là các vọng gác; cánh trái trên hình là Namgyal Dratsang – nơi sinh hoạt của Tăng ni:

Tổng thể cung điện Potala cao 117m, từ Đông sang Tây có chiều dài 360m, chiều rộng theo trục Bắc-Nam đo được 270m; diện tích hơn 360,000m2 bao gồm 13 tầng, bên trong chia thành hơn 1000 phòng nhỏ với gần chục ngàn Phật điện; vật liệu xây dựng cung là gỗ, đá, và bùn; độ cao trung bình so với mặt nước biển là 3600m, là cung điện xây dựng ở độ cao ấn tượng nhất thế giới. Phải nói rằng đó là một kỳ quan tôn giáo không chỉ riêng trong Lhasa mà của toàn nhân loại!

Lộ trình khám phá cung điện Potala cho mọi du khách: xuất phát từ cửa vào phía Đông bên phải, leo các bậc đá đi lên, du khách sẽ đến được Bạch Cung. Sau khi thăm hết Bạch Cung sẽ theo đường liên thông (trên nóc toà nhà có màu vàng nằm giữa 2 cung) để đi sang mái của Hồng Cung. Thăm Hồng Cung từ tầng cao nhất xuống dưới rồi ra ở cửa sau Hồng Cung, từ đó men theo con đường kora phía Tây để đi ra khỏi Potala. Chú ý: vọng gác và khu điện Namgyal Dratsang không mở cửa cho khách thăm quan; từ cửa vào Bạch Cung cho đến lúc ra cửa sau của Hồng Cung du khách sẽ không được chụp ảnh; các phòng điện nhạy cảm của Potala đều đóng cửa; trong mỗi khu điện thờ mở cửa và ở các hành lang đều gắn camera theo dõi chặt chẽ!

Trước đây phía ngoài Potala cung là hồ nước lớn, giờ đã bị lấp đi, xây thành quảng trường lớn. Con đường mới đang được trồng tỉa lại, chạy trước mặt cung điện:

Bỏ qua đường vào ở cổng chính, chúng tôi vào từ cổng chánh Tây của Potala … và như thế tôi đã đến đây … Sau lần đại trùng tu năm 1989-1994, chính phủ Trung Quốc chính thức đưa nơi đây vào khai thác du lịch. Trên tấm bia đá ghi: Cung điện Potala được Unesco đưa vào danh sách Di sản thế giới năm 1994 ^^

Ở cổng này có bàn kiểm tra hộ chiếu khách du lịch, nếu bạn mang hộ chiếu Việt Nam thì thủ tục kiểm tra nhanh chóng đến bất ngờ 😀 sau đó là khu vực máy scan an ninh – mọi thứ chất lỏng dạng chai lọ cỡ vừa và lớn cùng với đồ dao kéo, đồ bắt cháy … đều phải bỏ lại. Sau cửa này du khách mới thực sự đặt chân vào quần thể cung Potala, hình ảnh chánh Tây của cung – khu vực này không mở cửa cho khách vào thăm:

Con đường từ của phía Tây hợp lưu với đường vào từ cổng chính đi đến trạm soát vé thứ hai:

Từ đây ngước nhìn lên, cung Potala cao vời vợi … chỉ vài trăm bậc đá nữa là tới được cửa vào Bạch Cung; mới nghe tưởng dễ dàng nhưng có leo từng bậc Potala mới thấy cái khắc nghiệt của thời tiết Lhasa; trong điều kiện không khí loãng bằng 68% mức thông thường, ở độ cao hơn 3600m, du khách ai cũng thở khò khè trong gió khan và nắng cháy, lại không được quên chụp ảnh xung quanh 😀

Con đường trắng tưởng như vô tận sẽ kết thúc ở cửa lớn dẫn vào khu vực tiền sảnh Bạch Cung. Lên đến đây, ai cũng phải dừng lại thở lấy sức, đồng thời đợi các đoàn đi trước vào hết bên trong để khỏi chen chúc:

Từ đây đã có cái nhìn bao quát hơn về quảng trường phía trước Potala cung:

Tiền sảnh Bạch Cung:

Cổng lớn ở tiền sảnh Bạch Cung trang trí gỗ mun đỏ thắm buộc vải ngũ sắc, phía trên cánh cổng khổng lồ là phù điêu 7 con sư tử trắng với dòng chữ: Cánh cổng dẫn đến sự phồn vinh (The gate of storing prosperity). Nếu được vào cửa chính Hồng Cung, du khách sẽ gặp cổng lớn khác cũng bằng gỗ đỏ nhưng buộc lụa trắng, phía trên là dòng chữ: Con đường dẫn đến sự giác ngộ tâm thức hoàn toàn (The path to perfect spiritual enlightenment). Tuy nhiên cổng chính Hồng Cung thì hiếm ai được ngắm, lý do vì lộ trình đi thăm Potala xuất phát từ Bạch Cung rồi đi thông vào Hồng Cung từ trên nóc, đến lúc xuống thì ra bằng cửa hậu nên không qua cửa chính. Thông tin vừa nêu được người viết tham khảo từ sách The Potala do Unesco xuất bản.

Hai bên cổng là mural của Tứ Đại Thiên Vương (Four Guardian Kings), được xem là tứ tướng hộ pháp của Đại thừa Mật tông. Vị mặt vàng là Bắc Vương Đa Văn Thiên tay cầm lọng, vị mặt đỏ là Tây Vương Quảng Mục Thiên tay cầm stupa, vị mặt xanh là Nam Vương Tăng Trưởng Thiên tay cầm kiếm, và vị mặt trắng là Đông Vương Trì Quốc Thiên tay cầm đàn. Những bức hoạ hình này là những mural lớn nhất, đẹp nhất, và chi tiết nhất về bốn Thiên Vương có thể nhìn thấy trong Tây Tạng:

Trong truyện Phong thần của Hứa Trọng Lâm có tích Ma Giai Tứ Tướng với câu chuyện bốn anh em họ Ma (Ma Lễ Thanh, Ma Lễ Hải, Ma Lễ Hồng, và Ma Lễ Thọ) phò Trụ Vương Ân Thọ đánh Tây Kỳ có nét tương đồng với tứ đại thiên vương. Tuy nhiên khắc hoạ của Ma Giai Tứ Tướng mang phong cách của Đạo giáo chứ không phải Phật giáo, xét về niên đại cũng ra đời trước rất lâu – khi đó nhắm vào cuối thời Ân Thương trước công nguyên và nhà Chu dựng cơ nghiệp đất Thần Châu; còn Phật giáo phải đến thời Đường sau công nguyên mới trực tiếp ảnh hưởng vào Tây Tạng. Các bức tranh tường của bốn vị Hộ pháp ở cung Potala thể hiện thuần tuý quan niệm của người Tạng chứ không hề có sự lai tạp nào.

Tiếp tục đi qua các dãy hàng lang ngắn, du khách sẽ đến được sân trong của Bạch Cung (tiếng Tạng gọi là Deyangshar) vốn là nơi tổ chức các hoạt động lễ hội Phật giáo; bên phải sân là khu nhà 2 tầng màu vàng là nơi sinh sống của Tăng ni, bên trái là phòng tu học của Tăng ni, còn ở giữa là chính điện Bạch Cung:

Bạch Cung nhô cao kỳ vĩ giữa nền trời xanh thẳm, tuy chỉ có 5 tầng lầu nhưng kiến trúc Bạch Cung tiêu biểu cho lối xây thượng thu hạ thách độc đáo mang màu sắc Tây Tạng, những tường xây bằng đá phiến trát đất sét trắng nghiêng vào bên trong chứ không thẳng đứng, mỗi tầng lầu là các cửa sổ lớn và ban công phủ vải bạt đen, trên mái vòm vuông vức sử dụng màu đỏ và màu vàng để trang trí. Tổng hoà 3 màu sắc trắng, đỏ, vàng tượng trưng cho hoà bình, quyền lực, và sự viên mãn. Chỉ tiếc từ cánh cổng này trở vào trong cho đến khi ra cửa sau của Hồng Cung đều cấm chụp ảnh, người viết chỉ chụp lén được vài tấm khi đi thăm quan bên trong và ở đoạn mái nối liền 2 cung:

… Như bị lường gạt, các đoàn khách đi lướt qua các gian điện thờ, ngắm nhìn các pho tượng và tranh tường trong chớp mắt, chưa kịp hiểu mình đang ở đâu thì đã bước tới cửa sau của Hồng Cung:

Ra đến ngoài cửa sau của Hồng Cung, khách du lịch ai cũng thấy hụt hẫng! Nội cung chiến thành vĩ đại của người Tạng đó sao? cung điện mùa đông của Đạt Lai Lạt Ma chỉ là nhiêu đó? Có lẽ do chủ ý của Trung Quốc làm khách thăm quan không ai chiêm ngưỡng được vẻ đẹp quý báu thực sự của Potala: hàng người này đến hàng người khác xô đẩy luồn lách trong những hành lang nhỏ tối om om; giọng hướng dẫn viên oang oang vẳng vào từng góc nhỏ; những căn phòng đóng cửa, những ổ khoá im lìm, camera bí mật bố trí ở tất cả các cửa ra vào; ánh sáng vàng vọt le lói trên cao không đủ soi tỏ bệ thờ, những pho tượng nghìn tuổi được khoá sau những hàng rào gỗ cao quá đầu người, những tấm thangka và tranh tường khuất sau lưới sắt, những mandala 3D cất trong tủ kính mờ, những câu kinh Phạn-Tạng cuộn thành từng gói nằm phủ bụi trên kệ; những tấm biển chú thích sơ sài dưới chân những Stupa vàng ròng cực lớn … Người ta không cảm thấy được sự thâm nghiêm và cao quý của nơi đây, cái hồn xưa cũ của Potala dường như đi vắng!

Người viết may mắn trong lúc sắp rời khỏi Hồng Cung đã kịp mua cuốn sách The Potala của Unesco, ấn bản 1993 giá 160RMB, dành riêng để giới thiệu về cung. Cuốn sách này không bán ở bất cứ đâu ngoài khu vực cung Potala! sau khi mua, cuốn sách được đóng một triện màu đỏ 3 thứ tiếng Anh-Tạng-Trung: A Souvenir of the Potala Palace ^^ Sách dày 165 trang, tất cả đều in màu chụp lại toàn bộ các điểm nhấn kiến trúc của Potala, các điện thờ quan trọng của Hồng Cung và Bạch Cung, những Stupa chính cùng các pho tượng Phật quý giá cất bên trong cung, kiến trúc mái vòm kinh điển của cung … Đây là 1 tài liệu tham khảo cực kỳ quý giá để khách phương xa hiểu được những giá trị văn hoá và thấy hết vẻ đẹp mà cung Potala sở hữu. Xin được giới thiệu với bạn đọc một số hình ảnh chụp lại từ sách, những hình ảnh này hầu như chưa xuất hiện trên mạng, và kể cả có đi thăm Potala ngày nay chắc cũng khó lòng mà mục kích được:

– Bên trái là cổng tiền sảnh Bạch Cung, bên phải là cổng tiền sảnh Hồng Cung:

– Hành lang nội cung sơn son thếp vàng, trên tường là những thangka hoạ hình Đạt Lai Lạt Ma:

– Mái cung Potala toát lên sự oai nghiêm quyền lực:

– Ảnh là đỉnh mái vàng (Golden Dome) của Stupa lớn chứa thi hài Đạt Lai Lạt Ma thứ 13, xây năm 1936. Kiến trúc mái vòm Potala được trang trí đầu chim thần garuda, bên dưới mái là kết cấu ngàm đỡ nhiều tầng vô cùng chắc chắn, đảm bảo vòm chịu được chấn động và gió lớn:

– Ngoài tượng thân của 13 vị Đạt Lai Lạt Ma giữ bên trong cung, Potala còn có tượng vua Songtsen Gampo và các quan đại thần Thổ Phồn:

– Tượng Đức Phật Thích Ca (Shakyamuni) bằng vàng ròng tạc song song với tượng Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 Losang Gyatso bằng bạc từ thế kỷ 17:

– Tượng đồng của Phật A Di Đà (Amitabha hay Amitayus):

– Và tất nhiên không thể thiếu được tượng bạc của đại sư Tông Khách Ba (Tsongkhapa) là người sáng lập Hoàng Mạo Giáo (Gelugpa Sect) tạc từ thế kỷ 17:

– Bức tượng quan trọng nhất trong cung Potala: Quán Thế Âm Bồ Tát (Avalokitesvara) được mang vào Tây Tạng từ thế kỷ thứ 7:

– Stupa Tomb của Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 Thubtan Gyatso: cao 12.97m, rộng 7.83m, làm từ 18,870 lượng vàng ròng, bên trong có chứa cả di hài của Phật Thích Ca Mâu Ni. Đây chỉ là 1 trong hàng chục Stupa bằng vàng ròng được lưu giữ trong cung Potala:

– Trong 4 bậc của Stupa tượng trưng cho Tứ Diệu Đế (có dịp điểm qua với bạn đọc ở bài trước), người Tạng trang trí bằng kim cương, đá quý, hồng ngọc, lục ngọc; mỗi viên có kích thước lớn và đều là tài sản vô giá:

– Những Mandala 3D độc nhất vô nhị bằng đồng được đúc cách đây hàng trăm năm:

– Thangka cổ kể lại lễ hội năm 1695 sau khi cung Hồng Cung được xây dựng xong:

– Thangka cổ hoạ hình Đạt Lai Lạt Ma thứ 1 và thứ 3 – tác phẩm của trường phái Menthang:

– Thangka vẽ từ thời nhà Đường cũng thuộc trường phái Menthang:

– Hình tượng Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát (Manjushri) qua bút pháp của trường phái Khen-tse từ thế kỷ 17:

– Các báu vật khác trong cung: giáo huấn của Phật viết bằng tiếng Phạn trên giấy cọ (palm tree leaves):

– Khèn làm bằng vàng của người Tạng để thổi báo hiệu giờ nghỉ khi tụng kinh:

– Những pho sách cổ nhất lưu giữ trong cung:

Hy vọng vài hình ảnh trên cho bạn đọc cái nhìn chính xác hơn về những báu vật liên thành đang được bảo quản bên trong bảo tàng văn hoá Potala 🙂 Quay trở lại với bài viết, chúng tôi men theo con đường phía sau để đi xuống. Được biết con đường này vốn dành cho các nhà sư cưỡi ngựa lên Potala, riêng Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 còn lái xe ôtô lên xuống!

Khu vực công viên phía sau Potala nhìn từ trên cao:

Cánh cổng cuối cùng của quần thể cung Potala, ra khỏi đây, chúng tôi lại bắt đầu một cuộc đi dạo mới, đó là đi hết vòng Kora lớn theo tường bao ngoài dưới chân cung điện:

Con đường này đẹp tuyệt vời! hàng trăm chiếc kinh luân màu đồng óng ả in nổi câu kinh Om Mani Padme Hum xếp dọc theo tường, chốc chốc lại có người đi tra dầu bôi trơn cho từng chiếc, những đoàn người Tạng vừa đi vừa đẩy kinh luân xoay theo chiều kim đồng hồ giữa cái nắng trưa oi ả. Ở đây, người viết gặp nhiều người Tạng hơn cả, khác với bên trong cung điện Potala đa phần là khách thập phương:

Ngước nhìn lên có thể thấy phía sau của cung Potala:

Ba stupa lớn trong công viên phía sau cung Potala:

Con đường Kora kết thúc cũng là lúc du khách đến bến xe buýt trước cửa cung Potala. Lúc này cả đoàn ai cũng đã thấm mệt, mọi người lên xe đi ăn trưa:

5. Món quà Lhasa:

Sau bữa ăn trưa, chúng tôi đi thăm Bảo tàng Tây Tạng (Tibet Museum) nằm đối diện với cung điện mùa hè Norbulingka. Bảo tàng này không lớn nhưng quy tụ khá đầy đủ các thông tin giới thiệu về văn vật Tây Tạng, điểm thú vị nữa là hướng dẫn viên bảo tàng nói tiếng Anh rành rọt, còn về phần trưng bày chắc bạn đọc cũng đoán ra: đó là các phòng giới thiệu về đồ thủ công mỹ nghệ, thảm dệt, lục ngọc hồng ngọc đá quý san hô Tây Tạng, vòng đeo tay và trang sức … nhưng thu hút người viết nhất chính là phòng trưng bày Thangka và Mandala Tây Tạng. Tuy không phải bức nào cũng là tranh cổ, giá cả thì vô cùng – từ vài trăm RMB đến vài chục nghìn RMB – nhưng phần lớn các Thangka treo ở đây đều khá đẹp và được Tăng ni trong tu viện Tây Tạng vẽ trực tiếp, tiền bán tranh sẽ được chia lại 70% cho tu viện. Vốn đam mê nghệ thuật tạo hình Tây Tạng thể hiện qua các bức tranh, người viết đã có món quà thứ hai của Lhasa – đó là bức Mandala vẽ bằng bột vàng trên nền giấy bồi đen, vài hình ảnh xin chia sẻ cùng bạn đọc:

Đi từ vòng ngoài vào trong, Mandala này tạo hình nhiều lớp, mỗi lớp lại được vẽ bằng tay và đánh bột màu tỉ mỉ:

Chính giữa tranh là chữ Om:

Viền ngoài của tranh là các bánh xe Pháp Luân có 8 trục. Theo quan niệm Phật giáo Tây Tạng, bánh xe Pháp có 6 trục là biểu hiện của Lục Đạo (Trời, Người, A tu la, Súc sanh, Ngạ Quỉ, Ðịa ngục), nếu 8 trục là tượng trưng cho Bát Chính Đạo – con đường giải Khổ (Chính kiến, Chính tư duy, Chính ngữ, Chính nghiệp, Chính mệnh, Chính tinh tiến, Chính niệm, Chính định), còn 12 trục là biểu hiện của Thập Nhị Nhân Duyên. Những bánh xe Pháp thường gặp trong Tây Tạng như bánh xe Pháp trên nóc chùa Đại Chiêu (Jokhang Temple), trên nóc tu viện Sera ở Lhasa hay tu viện Tashilhunpo ở Shigatse đều là loại 8 trục:

Trang trí ở các góc của tấm Mandala:

… Vậy là tôi đã được thoả nguyện, ước mơ bấy lâu đã thành sự thực, tôi đã có được những món quà mà chỉ tới Tây Tạng mới tìm thấy được! Trở về khách sạn mà vẫn còn lâng lâng trong dạ, Lhasa đã gần 8h tối nhưng ráng chiều vẫn dệt vàng trên những đỉnh núi, mở cửa trông ra tôi chỉ thấy cái tĩnh tại của núi xám và đặc biệt là thấy Potala cung lặng im trên đỉnh đồi phía xa.

Chắc phải lâu lắm nữa tôi mới có dịp đứng ngắm Potala như thế này. Chưa thấy ai viết tặng Potala mấy vần thơ, tôi xin mượn ý thơ trong Thăng Long thành hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan sẽ hợp tâm trạng hơn:

    Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
    Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương
    Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo,
    Nền cũ lâu đài bóng tịch dương …

Chưa đến Potala thì chắc tôi không hình dung được bên cạnh dáng vẻ uy nghi hoành tráng, nơi đây đang trải qua những biến động ngầm, thách thức sự tồn vong của nền văn hoá cao nguyên lâu đời. Người Tạng thường làm ra những Mandala cát rất đẹp và công phu rồi lại quét bỏ đi như một cách biểu hiện tính vô thường của hiện hữu; phải chăng những gì họ tạo dựng được hàng nghìn năm qua đang phải đối mặt với một giai đoạn mới trầm luân hơn, như 1 quy luật của tạo hoá có thịnh có suy? Nói về Potala cung, vị đáo bình sinh hận bất tiêu (đi mà chưa đến cả đời hận khôn nguôi), nhưng liệu đắc đáo hoàn lai hận khả tiêu (đến rồi khi về có thực sẽ nguôi ngoai)?

Bài viết ngày 5 gồm 4 phần giới thiệu tổng quan về Phật giáo và văn vật Tây Tạng cùng hai nơi quan trọng trong Lhasa (chùa Đại Chiêu và cung Potala) đến đây là kết thúc. Khi màn đêm buông xuống trên Lhasa cũng là lúc tôi pha ly trà nóng vừa thưởng vừa đọc cuốn The Potala. Ngày mai lại là một ngày mới đầy nắng gió và tôi sẽ ở trên con đường 250 cây số nối liền Lhasa với Shigatse – thủ phủ vùng Tsang; xin hẹn bạn đọc trong bài viết ngày thứ 6 🙂

Tây Tạng Du Ký – Ngày 5: Jokhang Temple

3. Đi thăm Đại Chiêu Tự:

Sáng ngày thứ 5 thức giấc, ấn tượng qua 1 đêm là hình ảnh cung Potala chập chờn trong giấc ngủ và cơn nhức đầu khó chịu nhất từ lúc bắt đầu vào Tây Tạng. Ở độ cao trung bình 3500m, thủ phủ Lhasa quả không phải là nơi để khách phương xa dễ dàng thích nghi, chưa kể thời tiết tháng 6 là nóng nhất trong năm (~ 23 độ C ngoài trời), chưa đến 7h sáng mà ánh nắng đã chan hoà trên những rặng núi cao và lan dần vào thành phố 😀

Chỗ chúng tôi ở là khách sạn Himalaya (6 East Linguo Road), phòng khá sạch đẹp, có nước ấm 24/24, trong phòng cũng có máy thở oxi đề phòng khách du lịch chưa quen với không khí loãng trong Lhasa (giá thuê máy là 50RMB), tầng trệt của khách sạn cũng có cửa hàng bán đồ lưu niệm. Nhược điểm lớn nhất của hotel là vị trí hơi xa trung tâm quảng trường Potala, từ đây cần khoảng 15′ đi bộ để đến được khu phố Bakhor. Kế hoạch trong ngày 5 là dạo quanh Lhasa, đi bộ khu chợ Bakhor và vào thăm Đại Chiêu Tự (Jokhang Temple) buổi sáng, đến trưa sẽ đi thăm cung điện Potala, và chiều về thăm bảo tàng Tây Tạng (Tibetan Museum).

Sau bữa sáng nhẹ của khách sạn, chúng tôi bắt đầu lên đường khám phá Lhasa 🙂 Vài hình ảnh khách sạn Himalaya:

Ấn tượng đầu tiên khi đi dạo phố ở Lhasa là người dân ở đây dậy rất sớm, có lẽ bởi mặt trời ló dạng đằng Đông sớm hơn các vùng khác. Trên đường phố ở đâu cũng bắt gặp đoàn người hành hương và người bản xứ đang cùng song hành hướng về một phía – chắc bạn đọc cũng đoán ra – quảng trường Potala. Không khí ban mai của thủ đô trong lành, mát mẻ, có phần se se lạnh. Trời tuy nắng nhưng gần như không thấy ai mặc áo ngắn tay. Lòng vòng trong những con đường tắm nắng, ngắm nghía những ngôi nhà, góc phố, cùng người dân Tạng, du khách có thể thoải mái chụp ảnh, chỉ trừ các bốt gác lưu động trên đường với súng ống và đồ trực chiến của quân đội Trung Quốc! Một vài hình ảnh qua ống kính người viết về buổi sáng thường nhật nơi đây:

Nét cũ mới chen nhau ở Lhasa chắc không còn xa lạ gì trong những thập kỷ gần đây. Những khung cửa sổ trang trí mandala nhiều tuổi kế cận với những ngôi nhà người Hán mới xây càng minh chứng rõ ràng hơn cho cuộc sống đa sắc tộc trong lòng Lhasa:

Chúng tôi vào thăm một tự viện nhỏ nằm kín đáo bên trong các ngõ hẻm của khu chợ Bakhor, vì tự viện không cho chụp ảnh nên chỉ có vài hình ảnh phía ngoài chia sẻ cùng bạn đọc:

Sáu chiếc kinh luân (pháp khí của Mật tông) ứng với Lục Tự Đại Minh Chú – Om Mani Padme Hum:

Bên trong tự viện, tôi bắt gặp ở gian thờ Phật dắt trên khung cửa là những tờ tiền 2,000 hay 5,000 đồng Việt Nam, đầy phấn khích tôi cũng để lại một tờ tiền Việt làm kỷ niệm mùa hè đến thăm nơi đây ^^ Người Tạng mua những túi cây khô như thế này để đốt, khói trắng từ stupa lan toả trên nền trời xanh thẳm:

Nụ cười người Tạng: tay phải là chiếc chuyển kinh luân xoay theo chiều kim đồng hồ, tay trái là bọc tiền lẻ Nhân Dân Tệ. Tôi mất 1 RMB để chụp được bức ảnh này, tuy nhiên không nên lấy đó làm lạ, cũng chẳng hoài công xét đoán làm gì! Có chăng lại nhớ câu chuyện 2 vị tôn giả A Nan, Ca Diếp xưa cũng từng đòi Đường Tăng phải đổi bát tộ vàng thì mới trao cho Kinh pháp; nhìn theo góc độ học đạo thì đạo pháp không thể truyền thụ dễ dàng cho nên kẻ muốn thọ giáo phải đánh đổi. Thêm nữa, kiến giải của A Nan, Ca Diếp là phải có ăn để sống mà viết ra kinh, còn với tay trắng mà đòi lấy kinh truyền đời thì người sau có mà chết đói. Có thực mới vực được đạo, cái sự tưởng chừng như đơn giản mà khó lãnh hội biết bao! Câu chuyện cũ lướt qua trong tôi giây lát, rồi lại về với thực tại phố phường Bakhor:

Rời tự viện, chúng tôi rảo bước trên con đường dẫn đến Đại Chiêu Tự. Trong tiếng Tạng, Bakhor Square có nghĩa là Bát Giác Nhai, nơi đây lấy Jokhang Temple làm tâm điểm, là nơi nhộn nhịp thứ nhì trong trung tâm Lhasa, chỉ sau quảng trường Potala. Đường đến Jokhang đầy nắng và gió, hai bên đường là các quầy hàng bán đồ lưu niệm Tây Tạng sặc sỡ sắc màu:

Những người dân Tạng đi vòng quanh Đại Chiêu Tự theo chiều kim đồng hồ, coi đó là vòng Kora khổng lồ bao ngoài tự. Ngay trước cửa Jokhang Temple là 2 cây cột lớn quấn kỳ ngũ sắc của Phật giáo. Theo lời của hướng dẫn viên du lịch sau này chỉ cho chúng tôi biết, những nơi nào có 2 cột lớn như vậy là biểu trưng thánh địa được Phật giáo hộ trì, bên trong sẽ thờ tượng Đức Phật cùng chư vị Bồ Tát và các Hộ Pháp nhà Phật:

Ngay bên ngoài Jokhang Temple, ở hai phía tả hữu là dòng người hành hương mộ đạo làm lễ ngũ thể nhập địa tiêu biểu nhất trong các nghi lễ bái Phật của Tây Tạng: trước tiên là 2 tay chụm lại làm thành hình như búp sen chưa nở, sau đó chạm lên đầu, chạm xuống phía dưới cằm, rồi chạm xuống ngực, thân hình theo đó mà cúi thấp xuống, 2 tay đưa về phía trước rồi đầu gối quỳ xuống cho đến khi chạm toàn thân xuống đất, khi đã nằm song song với mặt đất thì 2 tay lúc này ở phía trên đầu, ngón tay có thể lần 1 hạt trong tràng hạt hoặc bấm vào 1 máy nhỏ đeo ở cổ tay; như vậy là làm xong 1 lần lễ. Người Tạng đến Đại Chiêu Tự bày tỏ lòng thành bằng hình thức bái lạy như thế, ít nhất là lần hết 108 hạt trong tràng hạt hoặc làm đến 10,000 lần! (có sự tích đằng sau con số 10,000 này mà người viết sẽ chia sẻ với bạn đọc trong bài viết ngày cuối ở Thanh Hải :P)

Không ai bảo ai, trong cái nắng ban mai đang chiếu rọi trên nóc chùa Đại Chiêu, chúng tôi im lặng chôn chân trước nghi lễ tôn giáo khổ hạnh nhưng mang niềm tin tâm linh mạnh mẽ đó:

Như đã có dịp điểm qua với bạn đọc, Đại Chiêu Tự được xây vào giai đoạn 642 sau Công nguyên bởi vua Tùng Tán Cương Bố (Songtsen Gampo). Thực ra ban đầu chùa được vua dựng để thờ tượng Phật mà công chúa Nepal Ba Lợi Khố Cơ mang vào Tây Tạng, nhưng sau tượng này được chuyển sang Tiểu Chiêu Tự còn Đại Chiêu Tự lúc đó bắt đầu thờ tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Thập Nhị Tuế Đẳng (Twelve-years old Shakyamuni, hay Jowo Rinpoche) do công chúa Đường quốc Văn Thành mang vào Tây Tạng từ thế kỷ thứ 7.

Bước vào sân chùa Đại Chiêu, du khách sẽ bị cuốn hút bởi sự trang nghiêm toát lên từ kiến trúc rực rỡ pha trộn tinh hoa Ấn Độ, Nepal, Tây Tạng, và cả nhà Đường của Trung Hoa. Màu sắc mỗi cây cột dọc hay xà ngang càng nổi bật hơn khi có ánh nắng chiếu vào. Trên đầu mỗi cột đều có hình Đức Phật Thích Ca với các tư thế toạ thiền và tay ấn khác nhau, còn trên các xà con giữa các thân cột là những câu kinh Tạng:

Mỗi bức tường của Jokhang đều là những bức tranh mural khổng lồ với hoạ hình Phật Thích Ca đẹp cổ kính, màu sắc trải qua hơn 10 thế kỷ nhưng nhìn vẫn lạ lẫm và cuốn hút:

Trước cửa của chính điện Jokhang là tấm màn che lớn có hình ảnh quen thuộc của Phật giáo: Bánh Xe Pháp Luân – tượng trưng cho Phật giáo muôn đời (Buddhism Forever), 2 con hươu trong truyền thuyết Phật Thích Ca thuyết giảng nơi vườn Lộc Uyển (Sarnath), và ngoài cùng là tháp Bồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya) nơi Đức Phật giác ngộ và giải thoát. Những hình ảnh này còn được tạc thành tượng vàng đặt ngay trên nóc chính điện của chùa. Dưới mặt đất là chữ Vạn (Svastika) bằng đá lớn xoay theo chiều kim đồng hồ mà người Tạng tin rằng sè mang đến phúc lộc an khang:

Chùa Đại Chiêu xây theo hướng Tây, cao 4 tầng và rộng tổng cộng 25,000m2; bên trong chùa ngoài tượng Đức Phật Thích Ca dát vàng được bảo vệ cẩn mật, còn có các bức tượng và gian điện thờ sư tổ Hoàng Mạo Giáo – đại sư Tông Khách Ba (Tsongkhapa) cùng các đại đệ tử, tượng các Tạng Vương Thổ Phồn, tượng các Hộ Pháp của phái Cách Lỗ (Gelugpa Sect) có kích cỡ bằng người thật, và tất nhiên cấm chụp ảnh! Một vài hình ảnh của chùa, kể cả những hình người viết lén chụp được:

Đại Chiêu Tự có rất nhiều phòng như thế này được giăng lưới sắt để bảo vệ, bên trong là những pho tượng lâu đời quý hiếm nhất của toàn Tây Tạng:

Ánh sáng bên trong chùa lấy ánh sáng tự nhiên là chính, kết hợp với những ngọn đèn nến làm từ mỡ bò Yak khiến màu sắc bên trong chùa lung linh huyền ảo hơn. Khác với chùa của Trung Quốc hay Việt Nam, các chùa ở Tây Tạng không nghi ngút khói hương, thay vào đó là mùi nồng nồng của mỡ bò bởi theo người Tạng, mỡ bò Yak khi đốt không tạo ra khói nhờ đó không gây hư hại đến các bức tượng hay tranh thangka treo trong chùa, ngược lại, mỡ bò Yak như phủ một lớp bóng đặc trưng lên các pho tượng. Những người hành hương mộ đạo khi vào lễ bái các tu viện và chùa chiền đều không quên mang theo một chiếc phích chứa mỡ bò Yak mà họ sẽ thành kính rót vào các lư đèn như một sự dâng hiến nhỏ vinh danh Phật pháp:

Vì là chùa linh thiêng nhất và lâu đời nhất trong Lhasa, Jokhang Temple như bị bao vây bởi đoàn người hành hương cũng như khách du lịch tứ phương kéo về, sức chen lấn cũng không kém gì hội chùa Hương! chỉ khác là không ai mang lễ vật hương hoa; riêng người Tạng thì mỗi bước đi đều lẩm nhẩm câu kinh Phạn-Tạng, khiến cho bầu không khí tuy đông nhưng hết sức thâm nghiêm. Nếu nhắm mắt mà tưởng tượng, người ta có thể nghe thấy bài ca tôn giáo nghìn lời hoà chung đang ngân nga dưới mái chùa Đại Chiêu trong ánh nắng vàng tưởng chừng như vô tận của Lhasa; bài ca đó thay tiếng trống chiêng, thay âm chuông mõ, cứ ngân nga nhịp nhàng đều đặn, mới đó mà đã 1300 năm rồi … bao nhiêu triệu triệu con tim đã đến rồi đi, ai cũng để lại Jokhang một chút hồng trần và mang đi một phần thanh tịnh …

Đi hết 1 vòng Đại Chiêu Tự, chúng tôi trở ra ngoài, quay lại chợ Bakhor để hướng về quảng trường Potala. Lúc này trời đã sắp sang trưa.

Điểm đến tiếp theo sẽ là Potala cung ^^

Tây Tạng Du Ký – Ngày 5: Văn vật Phật giáo Tây Tạng

Trở lại với bạn đọc trong bài viết ngày 5 ^^

2. Văn vật trong Phật giáo Tây Tạng:

Phật giáo Tây Tạng cuốn hút với nhân loại không chỉ bởi những tinh hoa pha trộn giữa Đại thừa phái (Mahayana), Mật tông (Tantrayana), và tôn giáo cổ Tây Tạng (với Bon giáo là điển hình) mà còn bởi những văn vật để lại cho đời. Có lẽ không nơi đâu trên trái đất này lại quy tụ đầy đủ và nhiều di chỉ Phật giáo như Tây Tạng, từ đền chùa thành quách đại viện tiểu viện cho đến tượng Phật, kinh sách luật tuyển, cờ phướn; rồi đồ dùng trong lễ bái, tán tụng, cúng dường, trì nghiệm, hộ ma, khuyến đạo … dường như không thống kê nào kể xiết! Trong bài viết ngắn ngủi này, người viết không đủ khả năng và cũng không có tham vọng tổng kết hết những tinh tuý của nơi đây, chỉ muốn dành đôi dòng nhắc đến những văn vật thường gặp trên đường khám phá Tây Tạng 🙂

a. Đại kỳ ngũ sắc:

Đi thăm Tây Tạng nói riêng và các quần thể Phật giáo nói chung, du khách hay bắt gặp các cờ phướn 5 màu tung bay trong gió. Nếu để ý kĩ, cờ ngũ sắc Tây Tạng có 5 màu (trắng, đỏ, lục, vàng, lam) hơi khác so với lá cờ Phật giáo (trắng, đỏ, cam, vàng, lam). Một trong các lý do có thể giải thích là: lá cờ Phật giáo chính thức ra đời năm 1889, còn Phật giáo Tây Tạng mà ảnh hưởng bắt nguồn từ Ấn Độ giáo thì đã có từ lâu đời, trải qua thời gian sẽ xuất hiện vài sai khác, tuy nhiên điều này không làm thay đổi ý nghĩa biểu trưng.

Số 5 không chỉ tượng trưng cho Ngũ Hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) tương sinh tương khắc làm nên vạn vật, còn ứng với Ngũ Trí của Mật tông miêu tả về trí của con người (Pháp giới trí, Đại viên kínha trí, Bình đẳng tính trí, Diệu quan sát trí, Bình đẳng tác trí), đồng thời hợp với Ngũ Uẩn (Sắc, Thụ, Tưởng, Hành, Thức) là 5 yếu tố tạo thành thân tâm, và là Ngũ Bộ Chú – nghi thức trì niệm của Mật Giáo (Tịnh Pháp Giới, Văn Thù Nhất Tự Hộ Thân, Lục Tự Đại Minh, Chuẩn Đề Cửu Thánh, và Nhất Tự Kim Luân Phật Đỉnh); nhưng trên hết là biểu thị sức mạnh và sự thống nhất giữa Ngũ PhươngNgũ Phật:

Ngũ Phật (Five Wisdom Buddhas) có thể coi là biểu hiện siêu việt nhất trong thế gian, các vị này là thầy của các Bồ Tát. Đồng thời, trong mỗi thời đại loài người, các vị lại hoá thân thành Phật lịch sử – có hình dạng người sống trên thế gian. Trong thời đại chúng ta, vị Phật lịch sử đó chính là Phật Thích Ca Mầu Ni (Shakyamuni Buddha), còn vị Phật được tin rằng sẽ xuất hiện trong tương lai (Future Buddha) là Phật Di Lặc (Maitreya Buddha). Vì thế mỗi khi nhắc đến Ngũ Phương Phật, người ta sẽ nhắc đến vị Phật lịch sử và vị Bồ Tát tương ứng:

– Trung ương: Đại Nhật Như Lai (Tathagata); Phật lịch sử là Ca-la-ca-tôn-đại (Krakuccanda) và Phổ Hiền Bồ Tát (Samantabhadra)
– Hướng Đông: Bất Động Như Lai (Aksobhya); Phật lịch sử là Ka-na-ca-mâu-ni (Kanakamuni) và Kim Cương Bồ Tát (Vajrapani)
– Hướng Nam: Bảo Sinh Phật (Ratnasambhava); Phật lịch sử là Ca-diếp (Kasyapa) và Bảo Thủ Bồ Tát (Ratnapani)
– Hướng Tây: Di Đà Phật (Amitabha); Phật lịch sử là Thích-ca-mâu-ni (Shakyamuni) và Quán Thế Âm Bồ Tát (Avalokitesvara)
– Hướng Bắc: Bất Không Thành Tựu Phật (Amoghasiddhi); Phật tương lai là Di-lặc (Maitreya) và Phổ Chùy Thủ Bồ Tát (Vishvapani)

Quan niệm trên chỉ xuất hiện từ khi Đại thừa Phật giáo ra đời, và càng được củng cố bởi Mật tông Tây Tạng, điều đó cho thấy sự khác biệt và phức tạp, bao hàm muôn yếu tố trong Phật giáo Tây Tạng. Đi khắp cao nguyên Thanh-Tạng, du khách sẽ gặp rất nhiều nơi thờ cúng Ngũ Phật cũng như các Phật lịch sử và chư vị Bồ Tát, bên cạnh các vị Tạng vương và Đạt Lai Lạt Ma, Ban Thiền Lạt Ma. Những sự sắp xếp trên luôn có nghiêm luật chặt chẽ mà hiếm có ai hiểu được, thậm chí phần lớn chúng ta không bao giờ hiểu rõ được mà chỉ biết chiêm bái để kính phục trí tuệ, công sức và sự sáng tạo của người xưa!

b. Statues:

Tượng Phật Tây Tạng nổi trội hơn so với bất cứ nơi nào trên thế giới bởi sự đa dạng phong phú về thể loại, mỗi tượng lại xuất xứ từ nhiều nguồn khác nhau (Ấn Độ, Nepal, Trung Quốc, bản địa), hình thái phong cách dáng ngồi tay ấn nét mặt màu sắc trang phục đều cực kỳ sinh động, toát lên những nét riêng của văn hoá Phật giáo Mật tông huyền bí. Nhìn ngắm mỗi bức tượng Tây Tạng, du khách sẽ bị thu hút bởi đôi mắt Phật không phải lúc nào cũng hiền từ nhìn xuống mà đôi khi mở to nhìn thẳng hay nhắm mắt, tuỳ thuộc theo tư thế thiền định và mỗi dáng ngồi, sau đó là những phù điêu trang trí nhiều tầng bao quanh tượng và cả chân bệ. Người Tạng còn dùng vàng, bạc, đồng, các kim loại quý và ngọc thạch, hổ phách, đá quý … để tô điểm thêm cho tượng, nâng giá trị của các bức tượng lên tầm có một không hai, trở thành tài sản vô giá của dòng Phật giáo nơi đây. Tây Tạng có những bức tượng cá biệt đến vài nghìn năm tuổi được trưng bày bên trong cung Potala. Thường các tu viện lớn và cung Potala đều cấm chụp ảnh nên cách tốt nhất có lẽ là một lần đến Tây Tạng để được chiêm ngưỡng những bảo vật truyền đời nơi đây.


(Tượng Thiên Vương chụp ở Shigatse)

c. Murals:

Murals hay các bích hoạ vẽ trên tường là hình thức nghệ thuật nổi tiếng của Tây Tạng, không chỉ mang tính trang trí làm đẹp với sắc màu cực kỳ sặc sỡ, những bức mural còn biểu hiện đức tin cổ giáo của người Tạng vào trời đất cỏ cây sông hồ núi tuyết, đôi khi là hình thức kể chuyện thuật lại tích cũ việc xưa trong quá trình gây dựng và hoằng trương tông phái, có lúc lại khắc hoạ chân dung những vị Phật, Bồ Tát, La hán, Hộ pháp, Tạng vương cũng như danh sư đạo Phật. Được biết chất liệu để vẽ tranh tường đều dùng nguồn nguyên liệu sẵn có ở mỗi địa phương, qua các công thức pha tạo màu cộng với chất liệu tự nhiên khả năng bảo vệ bức tranh theo thời gian hàng trăm năm mà không phai nhạt hay hư hại gì!


(Bức mural chụp ở Shigatse)

d. Thangkas:

Thangka cũng là các bức tranh Phật giáo bắt nguồn từ Nepal và du nhập vào Tây Tạng từ thời vua Tùng Tán Cương Bố lấy công chúa Nepal Ba Lợi Khố Cơ. Thangka Tây Tạng có thể xem là đỉnh cao của nghệ thuật tượng hình (Iconography) mà đề tài thường gặp là các bức vẽ về cuộc đời Phật Thích Ca Mâu Ni, Pháp luân, Phật Dược Sư, các tư thế toạ thiền, các vị hộ pháp và quỷ thần … Được biết Thangka được vẽ trên vải dệt sợi đay, rồi dùng mật của giống trâu Yawk trộn với bột đá để bồi mặt vải cho mịn, sau đó căng tấm vải đã bồi lên khung gỗ và dùng các loại màu khoáng hay bột vàng để vẽ. Tranh Thangka sau đó được khâu vào khung bằng lụa để dễ dàng cuộn lại, tiện lợi cho việc di chuyển và bảo quản.

Người ta tin rằng Thangka không chỉ cảm nhận được bằng mắt mà còn bằng tâm, việc chiêm bái Thangka một cách trang nghiêm sẽ giúp Phật tử nhập tâm, hoá thân với đối tượng được vẽ trong tranh, cảnh giới này có lẽ chỉ được nội truyền trong các tông phái mà không truyền cho người ngoài. Màu sắc sử dụng trong Thangka cực kỳ sinh động, sặc sỡ và chi tiết tới từng đường nét nhỏ. Chính bởi tính độc đáo của Thangka và ảnh hưởng tín ngưỡng của nó mà người đời sinh ra sùng bái và ham thích sở hữu Thangka, phá vỡ quy luật gốc của tranh là không được trao đổi mua bán! Ngày nay Thangka đã thương mại hoá, việc sao chép, vẽ lại và buôn bán trở nên phổ biến tại thị trường các nước; tuy nhiên vẻ đẹp và sự tinh xảo thì kém xa những Thangka hàng nghìn tuổi của vùng Tây Tạng. Do đó đến Tây Tạng ngắm những bức Thangka cổ đại, người ta vẫn rung động và trân trối bởi nét độc đáo đầy tính Chân Thiện Mỹ toát lên từ mỗi bức tranh.

Trường phái Thangka Tây Tạng nổi bật lên với 2 tên tuổi: Khentse Chenmu SchoolMenthang School, tác phẩm của 2 trường phái này du khách sẽ bắt gặp nhiều khi đi thăm quan hành cung Potala 🙂

Mandala: Mandala cũng là những bức hoạ hình giống như Thangka, điểm khác biệt ở đây là Mandala luôn chú trọng vào các hình vẽ vòng tròn biểu thị cái nhìn của người Tạng về thế giới và vũ trụ, trong đó hoạ hình các đức Phật hay Bồ Tát hoặc những biểu tượng Phật giáo. Điểm độc đáo ở Tây Tạng là có những mandala cỡ lớn và cực lớn bằng cát, có Mandala ba chiều mô phỏng các cung điện, và đặc biệt là các tu viện được xây theo kiến trúc Mandala như tu viện Samye (Samye Monastery) đã có dịp nhắc đến trong phần 1 về Phật giáo Tây Tạng ^^


(Bức Mandala lớn vẽ trực tiếp trên tường – ảnh chụp ở Shigatse)

e. Stupas:

Stupa (hay Chorten) xây theo dạng hình tháp, được coi như ngôi nhà lưu giữ phần hồn, cũng giống như các pho tượng được xây để lưu giữ phần xác vậy. Ở Tây Tạng, stupas có mặt ở khắp mọi nơi, không chỉ là nơi chứa tro cốt di hài mà còn chứa những vật dụng bình sinh được Đức Phật hay các môn đệ sử dụng; qua đó thể hiện sự tôn kính của người dân đến di thể của Phật.

Stupa thường gặp gồm nhiều tầng: tầng đáy thấp nhất tượng trưng cho 10 điều tâm niệm (Thập tâm hạnh), tầng tiếp theo gồm 4 bậc tượng trưng cho Tứ Diệu Đế (Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế, Đạo Đế) và Tứ Thần Túc (Dục, Tinh, Tâm Quán), phần trên nữa có dạng bầu là biểu hiện của Ngũ Căn (Tín căn, Tấn căn, Niệm căn, Ðịnh căn, Huệ căn) và Ngũ Lực (Tín lực, Tấn lực, Niệm lực, Ðịnh lực, Huệ lực), phía trên là 13 bậc thang dẫn lên cao tượng trưng cho đường tới cõi Niết bàn chỉ có thể thông qua Bát Chính Đạo, và trên cùng luôn là mặt trăng và mặt trời biểu thị sự minh triết soi sáng mọi vật.

Nổi bật phải kể đến bộ 8 stupa lớn (Eight Great Stupas) kể lại những thành tựu trong cuộc đời tu hành đắc đạo của Phật Thích Ca Mầu Ni; và các Stupa Tomb bằng vàng ròng cực lớn của các đời Đạt Lai Lạt Ma Tây Tạng lưu giữ bên trong cung Potala:

Những chi tiết thú vị khác của văn vật trong Phật giáo Tây Tạng sẽ được nhắc lại khi cùng bạn đọc đi qua những địa danh ở Tây Tạng ở bài viết tiếp theo 🙂