Tây Tạng Du Ký – Khúc vĩ thanh

Quả thật khó cho tôi khi muốn viết lại Khúc vĩ thanh Tây Tạng, bao nhiêu hình ảnh chuyến hành trình 11 ngày cứ đầy ăm ắp, ấn tượng với Tây Tạng vô cùng sâu đậm, những thắc mắc năm xưa nay đã tìm được lời giải đáp trên vùng đất Phật nhưng kéo theo đó là muôn vàn điều mới mẻ và lòng càng băn khoăn hơn … Xin trích đôi dòng từ cuốn Mùi hương trầm (tác giả Nguyễn Tường Bách): “Cảnh quan thiên nhiên tuyệt đỉnh của Tây Tạng không chỉ làm hứng khởi tầm nghe nhìn của chúng ta vốn thường bị mây mù, khói đục và tiếng ồn che phủ, mà còn tích cực hơn, nó dẫn đường mở lối cho nhận thức và ý niệm về cái miên viễn đang hiện hình trước mắt ta. Tâm ta biết rằng cái miên viễn không phải đi tìm đâu xa, nó nằm ngay trước mắt, nó hiện diện ngay trong lòng, chỉ mắt vướng bụi nên không nhìn thấy nó, chỉ lòng chưa tỉnh nên không nhận ra nó. Nhưng cái miên viễn cũng không phải trần trụi sờ sờ ra đó để ai cũng có thể ngắm nghía mà muốn tới với nó phải đi hết đoạn đường phi hữu phi không, phải tự tay mở cánh cửa vô môn, phải nghe được thứ tiếng không lời, phải vào chốn ẩn mật chỉ dành cho những người dâng hết tâm ý, biết buông rơi chính mình. Cảnh quan Tây Tạng là bước khởi đầu, không phải là đoạn kết thúc.” Phải rồi! chỉ là bước khởi đầu, chưa phải là đoạn kết thúc, tôi đang viết cho bước khởi đầu của chính mình 🙂

1. Đô Thành mù sương

Tôi có duyên nhiều với Thành Đô (Chengdu) và cũng rất yêu thích thành phố này bởi nó có cái trong mát yên bình của đô thị quanh năm bao phủ bởi sương mù, kèm theo bề dày lịch sử văn hoá của cố đô Thục Hán đến nay đã vài mươi thế kỷ, cũng lại mang dáng dấp tân kỳ đô hội phát triển không thua kém bất cứ nơi đâu. Cũng vì thế tôi chọn Thành Đô, Tứ Xuyên làm điểm xuất phát của cuộc hành trình. Tuy chỉ lưu lại Thành Đô 1 ngày nhưng tôi đã may mắn cảm nhận được phần nào cuộc sống nơi Thiên Phủ Chi Quốc với những ghế kiệu, phòng trà, bạch viên, thi quyển:

Những vẻ đẹp làm mê lòng khách đến Thành Đô: này là Vọng Giang Lầu êm đềm trong sương sớm, này là Văn Thù Miếu giấu trong lòng nó những gì tinh hoa của vùng Tứ Xuyên. Bước chân vào Đệ nhất danh trà quán, người ta thấy một nốt trầm trong đời sống phồn hoa của nơi đây, không líu lo điện thoại, không tíu tít bán hàng, người dân Thành Đô vào đây độc ẩm, đối ẩm, quần ẩm bên những ly trà luôn bóc khói nóng; đáng yêu và thú vị như tiết trời sương khói mát mẻ bao đời của mảnh đất này vậy. Không chỉ có thế, Văn Thù Miếu còn có riêng 1 thư viện Phật học cực lớn bên trong khuôn viên bởi với những ai nghiên cứu Phật giáo thì đều biết rằng hình tượng Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát là tượng trưng cho trí huệ mênh mông, điều mà sau này tôi được chứng ngộ khi đặt chân vào Tây Tạng.

Thành Đô tiễn tôi bằng 1 cơn mưa nhẹ và màn Xuyên kịch đặc sản khi trời chiều lảng bảng. Phố đẹp, đường đẹp, lầu gác đẹp và người cũng đẹp; Thành Đô trong mưa là 1 ấn tượng khó phai với khách phương xa. Ngồi trong rạp dựng ngoài trời ngay dưới cơn mưa xem hý kịch Trung Hoa lại càng thú vị hơn nữa. Tôi sẽ không lạ nếu mai này bên sông Cẩm Giang người ta chơi thêm hồ cầm đàn địch, để nếu có dịp ghé thăm tôi lại được thả hồn mơ mộng, hỏi rằng có phải đang tấu khúc Hồ trường Dạ Vũ Tiêu Tương?

Xin hẹn Thành Đô không xa lần tiếp theo du ký Trung Hoa sẽ gặp lại cố nhân 🙂

2. Tuyết Quốc trong mây

Có rất nhiều cái tên đẹp để dành riêng gọi cho mảnh đất của những độ cao này: Tây Tạng, Tibet, Land of the Snows, Nóc nhà thế giới, hay chỉ đơn giản là Tuyết Quốc. Một sớm mùa hè như mọi ngày nhưng có ý nghĩa đặc biệt với tôi, hôm nay tôi sẽ bay trên rặng Tuyết Sơn để đặt chân vào thánh địa Phật giáo, học theo dấu chân minh triết của người xưa lần tìm về xứ sở huyền thoại.

Rời Thành Đô, tôi đến với cửa ngõ màu xanh của Tây Tạng: Nyingchi (thuộc địa giới vùng Kham cũ). Nhấc từ đồng bằng lên cao nguyên trung bình 3000m so với mực nước biển sau vài tiếng bay, tôi choáng váng bởi không khí loãng và càng choáng váng hơn bởi những hình ảnh đầu tiên về Tây Tạng hiện ra xanh đến thế ^^ Chẳng thế mà những khách du lịch khi khám phá vùng Kham đã đặt cho nơi đây cái tên ‘Wild Wild East’ bởi sự khác biệt cực kỹ rõ nét về cảnh quan tự nhiên và điều kiện thời tiết: này là rừng cây thác nước, kia là núi tuyết thảo nguyên; thiên đường xanh Tây Tạng kỳ thú lắm!

Đường nay mây trắng gió ngàn:

Nếu như đỉnh Phan Xi Păng cao 3143m, trèo lên đến nơi là chạm vào nóc nhà Đông Dương thì ở Nyingchi cũng độ cao tương tự, tôi được chạm vào lá vào hoa của Khả Đình Câu, chạm vào thân cây Đại Bách 2600 năm tuổi, được dừng trên đỉnh Sejila cao 4702m để chạm vào sương gió ngay giữa trưa nắng hè, được hít thở cái mát rượi của rừng Lulang từ vọng lâu nhìn ra đỉnh Namche Barwa cao 7786m, đặc biệt là được chạm vào nét sơ khai của cổ giáo Ninh Mã do đại sư Liên Hoa Sinh sáng lập mà dấu tích còn lưu lại trên tu viện Tsozong giữa hồ Basum-tso:

Tạm biệt tiểu Thuỵ Sĩ vùng Kham, tôi lên đường đến với thành phố của chư thiên, trái tim của Tây Tạng: thủ phủ Lhasa. Hỏi rằng chư Phật nơi đâu? có phải là bức tượng Đức Thích Ca Thập Nhị Tuế Đẳng bên trong đền Jokhang tuổi đời chục thiên niên kỷ hay ngay trước mắt tôi kia dòng người mộ đạo bước đi giữa cái huyên náo của khu chợ Barkhor tay xoay kinh luân còn trong lòng tịnh không, hướng Phật:

Thiên kinh vạn quyển đọc bao nhiêu cho đủ? chỉ một lần lặng im đứng giữa Bát Giác Nhai sẽ dấy lên niềm kính phục nghi lễ tôn giáo khổ hạnh tràn đầy niềm tin của người Tạng dưới mái chùa Đại Chiêu buổi bình minh đầu ngày. Phải chăng người xưa có câu Nhất tu thị, nhị tu sơn để dành cho những con người này? Đời trong đục nào có hề chi, bởi họ đã đem đạo về đây giữa phố phường Lạp Tát hơn nghìn năm có lẻ, kể từ cuộc hôn phối giữa công chúa Văn Thành và Tạng Vương Tùng Tán Cương Bố thế kỷ thứ 7.

Đặt chân đến Lhasa chắc chắn ai cũng phải đến chiêm ngưỡng kiến trúc đồ sộ mang phong cách Tạng của hành cung Potala và tôi không phải ngoại lệ. Chưa bao giờ tôi tưởng tượng được trong đời mình sẽ có dịp leo mấy trăm bậc đá trắng trên độ cao 3600m để bước vào nơi thâm nghiêm cao quý nhất của cộng đồng chính-giáo Tây Tạng; và cứ như thế, tôi hăm hở thở và leo.

13 bức tượng của các Đạt Lai Lạt Ma đời trước, căn phòng của Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 sử dụng khi ngài còn tại vị, những stupa sơn son thếp vàng nạm đầy ngọc quý, những hành lang phô phang màu sắc, những cánh cổng đỏ sậm đầy quyền uy, những cầu thang lên xuống như ma trận, những bức tường được mural nhuộm thắm, những chiếc cột đen nhánh mỡ bò yak treo thangka khổng lồ, mùi nến mùi người mùi gỗ mùi ẩm mốc và mùi tiền … tất cả làm đầu óc của kẻ người trần mắt thịt như tôi rối bời!

Hiếm ai ra khỏi cung điện Potala mà lòng không hụt hẫng, lý do thì muôn vẻ nhưng tựu chung lại là cảm giác xa lạ, mất mát. Đã hơn 50 năm rồi hành cung Bố Đạt La vắng bóng chủ nhân thực sự của nó. Người Tạng cũng không còn lui tới đây thường xuyên, có chăng chỉ đi vòng kora khổng lồ dưới chân điện. Có sinh có diệt, vạn vật vô thường, Đức Thích Ca cũng từng truyền dạy điều đó áp dụng cho cả Phật pháp; mới nghe sao thấy dễ dàng nhưng đến Lhasa đối diện với thực tại đang diễn ra từng ngày thì lòng cay đắng lắm! Nhưng nếu ai hỏi tôi ấn tượng nhất với Lhasa là gì, tôi vẫn sẽ trả lời: “Potala!”. Nếu bạn một lần đến Lhasa, xin hãy bỏ sức leo lên cung, cũng như bạn đã từng không ngần ngại leo Yên Tử, leo chùa Hương, leo Côn Sơn Kiếp Bạc; bởi tôi xin cam đoan với bạn một điều rằng trên cao gió bạt tiếng eo sèo.

Potala kể từ ngày đầu được vua Tùng Tán Cương Bố đặt nền móng năm 637 cho đến lúc Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 mở rộng năm 1645 đã kinh qua bao biến thiên đổi dời; ngày nay trở thành bảo tàng độc đáo cho kiến trúc và văn hoá Phật giáo của người Tạng trên cao nguyên. Và khi đêm về trăng lên là lúc phô bày vẻ đẹp lưỡng tông Hồng-Bạch huyền ảo bí ẩn đó:

Trong cái nắng hè oi ả của kinh đô ánh sáng lúc nào cũng ngập tràn ánh mặt trời, tôi đến thăm tu viện Sera, 1 trong 3 ngôi đạo tràng quan trọng bậc nhất của thủ phủ Lhasa. Ấn tượng của tôi về ngôi đại tùng lâm này là hàng cây rợp bóng trong khuôn viên tu viện và nét mặt hứng khởi của những Tăng sĩ tuổi còn rất trẻ đang sôi nổi truy bài trong vườn Biện Kinh:

Nội dung của những cuộc tranh luận khẩu chiến này tôi không được biết, nôm na người đời bảo đó là cách để đào sâu hiểu biết về Phật điển, nâng cao tri thức trong quá trình tu học, và cũng là cách tinh tiến để đạt cảnh giới cao hơn. Tổng cộng có 6 cấp bậc trong giới Tăng sĩ Tây Tạng và việc vấn đáp sát hạch là bắt buộc để đạt được tới cấp thứ 4! Hoá ra có cách ngồi tập trung thiền định thu mình vào trong để tự giác ngộ, cũng lại có cách biện giải huyên náo để lĩnh hội giới luật như thế. Hoàng Mạo Giáo là tông giáo chú trọng nhất vào việc học đạo đúng cách, đề cao sự rèn luyện của Tăng chúng; hôm nay tôi đã được thấy phần nào điều đó:

Rời Lhasa tôi lại rong ruổi trên con đường thiên lý đến thăm thành phố lớn thứ 2 của Tây Tạng: Shigatse. Ngày đi Shigatse cũng là ngày nhiều sự kiện với tôi khi được tận mắt ngắm những kỳ quan thiên tạo và nhân tạo tuyệt diệu của Tây Tạng. Có ai không nín thở khi đứng trên đèo Karola cao hơn 5000m để ngắm màu xanh ngọc kỳ lạ của hồ San hô Yamdrok-tso đẹp ngỡ ngàng đang uốn lượn dưới chân đỉnh băng vĩnh cửu Nojin Kangtsang sừng sững ở độ cao 7191m:

Vị nữ thần nào năm xưa đã hoá thân vào hồ Yamdrok kỳ ảo này để ngày hôm nay tôi đứng đây chôn chân trong nắng gió ngắm nhìn cảnh quan mà lòng cảm khái trào dâng, thêm giận mình bất tài không tả được cái đẹp siêu nhiên chốn này!

Con đường xuống đèo chạy song song với bờ hồ mang lại góc nhìn khác về Yamdrok-tso, một góc nhìn tâm linh. Ai đến hồ cũng sẽ để ý thấy hàng ngàn ụ đá nhỏ có theo hình dạng stupa rải rác gần mép nước mà người Tạng hàng năm đi hành hương qua đây đều cung kính xếp lại như để lưu dấu trong cõi trần ai này, họ đã đến đảnh lễ chốn hồ thiêng vinh danh Phật pháp.

Khi xe chạy qua lên đỉnh đèo Karola (4960m) là lúc tôi được nhìn gần Nojin Kangtsang hơn, ngắm nhìn cái chói chang của đỉnh băng trong nắng trưa và rùng mình trong cái lạnh không cắt nghĩa được, cũng là dịp khẳng định một điều tôi đã tâm niệm từ lâu về Tây Tạng: Tuyết nơi đây trắng sạch nhất thế gian!

Dấu ấn thiên tạo của Tsang là thế, còn dấu ấn nhân tạo thì sao? tôi dừng chân bên trấn anh hùng Gyantse nghe lại câu chuyện pháo đài Gyantse Dzong nơi bao người Tạng ngã xuống đền nợ nước trong buổi đầu xâm lược của thực dân Anh năm 1904. Một thế kỷ đã qua rồi, pháo đài Dzong ngày nay vẫn sừng sững giữa thị trấn, tiếng súng gươm đã lùi vào quá khứ nhưng cuộc tranh đấu âm thầm lặng lẽ liệu đã thôi âm ỉ?

Gyantse là thị trấn nhỏ và nghèo, đường đi vắng lắm, những ngôi nhà lầm lũi như khô cháy dưới nắng cao nguyên, bóng người Tạng thấp thoáng dưới mái hiên, con đường giữa trấn như hoàn toàn tách biệt bởi dòng xe du lịch cứ chạy rầm rập, ngồi trên xe là khách thập phương tứ xứ như chúng tôi đây, chắc không có ai dừng lâu nơi này để nói được lời chào đúng nghĩa. Chạnh lòng nghĩ đến câu của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp: “người vô tâm nhiều như gió bụi trên đường”

Cách pháo đài Dzong không xa là quần thể tu viện Pelkhor Chode – nơi hoà quyện tâm linh và dung dưỡng của 2 tông giáo Tát Ca và Cách Lỗ của Tây Tạng, một hình thức tổng hoà độc đáo mà tôi bấy giờ mới có dịp diện kiến. Chưa chạy đến cổng tu viện đã thấy thấp thoáng phía xa công trình kiến trúc “dị thường” nhất của toàn vùng Tsang nói riêng và cả Tây Tạng nói chung: tháp Thập Vạn Phật

Đếm sao cho đủ chi tiết mười vạn tranh tường, bích hoạ, tượng Phật, khám thờ … bên trong tháp; chỉ biết rằng ai đến đây cũng giật mình bởi kiến trúc Stupa Muôn cửa khổng lồ đã được người Tạng nghiêm cẩn dựng lên thành kỳ quan giữa cao nguyên! Kia là 4 tầng đáy của Tứ diệu đế và 4 đôi mắt hiền từ của đức Thế Tôn đang nhìn ra bốn phương; trên nữa là 13 nấc thang phấn đấu của đời người dẫn lên cõi Niết bàn; trên thượng tầng tháp là sự minh triết, là vòm trời xanh với trăng sao mây trắng nắng vàng. Kiến thức bản thân còn hạn hẹp mà biển trí huệ thì bao la, tôi chỉ biết gửi gắm những điều mình thấy qua vài bức ảnh.

Màu sắc của Kumbum – Thập Vạn Phật tự bên trong và cả bên ngoài phải dùng tính từ dữ dội để diễn tả! Nếu sắc bao quát trắng-đỏ-tím bên ngoài tháp chịu ảnh hưởng trực tiếp của kiến trúc Nepal thì bên trong mỗi khám thờ tôi bắt gặp cách phối màu rực rỡ và có phần siêu thực của người Tạng. Mỗi gian điện lần lượt là các bức tượng thờ Quán Thế Âm, Thanh Đa La, Bạch Đa La, Tu di, Văn Thù Sư Lợi, Phổ Hiền Bồ Tát thì trên tường và trần là sẽ là vô vàn hoạ hình tương ứng. Tôi còn nhớ mãi khi đó trong lúc mắt quáng tay run chân mỏi, tôi bước vào 1 khám thờ rất tối và khi ngước lên bắt gặp tượng thân của Đức Phật Thích Ca toàn một màu đỏ sậm khoác y vàng đang nhìn xuống. Lòng tôi vừa kính sợ vừa thích thú, lễ tạ Ngài xong tôi đi lùi ra cửa mà không dám nâng máy lên chụp. Đây có lẽ là gian điện duy nhất tôi không dám chụp ảnh dù được phép.

Trên đường leo lên tháp, tôi gặp nhiều gia đình người Tạng 2-3 thế hệ cũng đang đi tham bái Kumbum, chúng tôi cùng lần từng bước lên những bậc thang nhỏ hẹp quanh co để khi lên đến đỉnh thì trao nhau nụ cười và cái gật đầu thay lời chào giữa những người không cùng ngôn ngữ. Tôi leo Kumbum mà cứ thắc mắc mãi, người Tạng vốn khá cao to mà sao những cầu thang họ làm nhỏ thế để vừa leo vừa lo đụng đầu? thế rồi tôi tự tìm cho mình lời giải đáp: Có phải chăng từ lúc sinh thời họ đã gắn bó với Phật giáo, khi còn nhỏ họ đã đến thăm viếng nơi đây và khi đã tuổi già xế bóng thì con cháu lại đưa họ tìm về chốn cũ? Nếu xa xưa lúc còn thơ bé đã có dịp vào nơi này thì chẳng phải thế giới quan hoá ra rất rộng lớn hay sao!

Đứng trên Kumbum lúc này chính ngọ, tôi nhìn bao quát toàn trấn Gyantse đang được mặt trời dát vàng ở cao độ xấp xỉ 4000m mà thầm cảm phục câu nói đầy tính triết lý của thi hào Goethe: “Über allen Gipfeln ist Ruh” – Trên tất cả những đỉnh cao là bình yên.

Rời Kumbum, con đường xuyên vùng Tsang đưa tôi đến điểm dừng cuối: tu viện Tashilhunpo ở trung tâm thành phố Shigatse, là nơi tiếp diễn sự truyền thừa của dòng Ban Thiền Lạt Ma. Những tranh chấp phức tạp nhiều thế hệ hiển hiện trong lòng xã hội chính trị-tôn giáo Tây Tạng và cả sự ganh đua giữa 2 đô thị Nhật Khách Tắc và Lạp Tát sẽ là đề tài thu hút bất cứ ai đặt chân đến đây.

Trát Thập Luân Bố ngày nay là nơi tu học của Tăng sĩ vùng Tsang, cũng là điểm du lịch không thể bỏ qua. Câu chuyện dòng Đạt Lai Lạt Ma và Ban Thiền Lạt Ma; người là học trò, người là thầy dạy; cả 2 dòng đều là những đệ tử lỗi lạc của Hoàng Mạo Giáo thờ chung thầy là đại sư Tông Khách Ba; cả 2 dòng đều có tái sinh; mỗi dòng vừa có nhiệm vụ tiếp tục truyền thừa vừa thụ ấn người tái sinh của dòng kia. Mới nghe sao mà rắc rối và biết bao điều cơ mật đi kèm, kẻ hậu sinh như tôi quả không dám lạm bàn!

Bước đi trong Tashilhunpo, tôi bị thu hút bởi tông màu đỏ rực đầy uy quyền của 4 toà điện lớn nhất trong khuôn viên viện cùng những mái vàng ròng phô bày xa hoa minh chứng cho tài nghệ xuất chúng của người Tạng.

Hình ảnh bức tượng Phật tương lai Di Lặc cao 27m với đôi mắt xanh hiền hoà trong điện Jamkhang Chenmo cùng với sân Kelsang rộng lớn bao bọc 4 phía bởi nhưng bức tường đầy màu sắc hoạ hình đức Phật trong muôn ngàn ấn thủ chắc sẽ còn đeo đuổi tôi mãi …

Thiên nhân đồng điệu ^^ tạm biệt những công trình nhân tạo đượm màu tôn giáo vùng Tsang, tôi đi dọc theo dòng Nhã Lung trở lại vùng U để ngắm những nét thiên tạo khốc liệt khác mang bản sắc cao nguyên. Đứng trên triền dốc nhìn ra con sông Yarlung Tsangpo đang chảy giữa lòng U-Tsang, tôi mừng gặp lại người bạn cũ. Mới vài ngày trước tôi lần đầu gặp Nhã Lung khi sông uốn lượn hiền hoà dưới chân đỉnh Namche Barwa đoạn chảy qua rừng xanh Lulang; còn ngày hôm nay sông như xanh hơn in bóng trời trong vắt chảy xuyên qua những vùng đất trống núi trọc cực kỳ hiểm trở, hai bên là lạo xạo sỏi đá. Tôi nhặt vài viên đá và ném mạnh ra xa, dù đã thử nhiều lần và dùng hết sức, hòn nào hòn nấy chỉ rơi xuống lạch cạch và dừng lại bên bờ mép nước. Quá xa, quá rộng, quá hùng tráng! còn con người thì quá nhỏ bé! Ngay cả con đường 318 mệnh danh là Quốc lộ Trung Hoa cũng chỉ như đường kẻ vạch trên tấm màn mênh mông bao bọc bởi trời nước núi non.

Năm xưa vương triều Nhã Lung hùng mạnh rời đô từ thung lũng Yarlung vùng Kham về Lhasa chắc chắn đã qua đây. Bao nhiêu người đã đến và bao nhiêu người sau này sẽ tới, liệu họ có như tôi cũng đứng trước sông và ngâm ngợi về quá khứ vị lai của mảnh đất này? Lý Nhuệ dành trăm trang sách Ngàn dặm không mây để viết về thôn Ngũ Nhân Bình “hai năm không mưa, nắng như thiêu đốt”; có ai đã viết cho nơi đây những lời công bằng? Mà nào có hề chi với dòng Nhã Lung hùng tráng, “Chảy đi sông ơi – Băn khoăn làm gì? – Rồi sông đãi hết – Anh hùng còn chi?”

Trở về vùng U, tôi đi thăm một nơi linh thiêng nằm trong Tứ đại hồ thiêng của người Tạng: thánh hồ Nam-tso. Nằm ở độ cao hơn 4700m, lại bao bọc bởi rặng Nyenchen Tanglha với đỉnh cao chạm trời 7162m, hồ Nam-tso rộng đến 1920 cây số vuông, gần gấp 3 lần quốc đảo Singapore! “Nhỏ” như Singapore tôi còn chưa có dịp đi hết, đứng trước hồ mà tôi tâm phục khẩu phục. Phải gọi nơi đây là biển! biển trời, biển nước, biển gió, biển mây, và may sao không phải biển người ^^

Phong vô tướng, vân vô thường, muốn cảm nhận hết vẻ đẹp và sự linh thiêng của Nam-tso đã là khó rồi, nói chi đến việc nắm bắt dáng hình đang trải dài trước mắt. Khuôn hình tôi có hạn, cảm nhận còn thô vụng, xin tặng lại Nam-tso vài phút giây ngày nắng đẹp tôi đến – một trong muôn ngàn vẻ đẹp khôn tả của chốn biển hồ trên núi, dằng dặc một khúc ca giữa bao la mây trời.

Kỷ niệm với Nam-tso trong tôi còn là buổi trưa rất vui giữa lều 1 gia đình người Tạng sát mép hồ, nơi tôi được thư thả cạn chén trà sữa bò Yak và ăn món sữa chua gia đình làm. Nồng lắm, đậm lắm, béo lắm, khó ăn lắm nhưng hãy ăn đi bởi biết đến bao giờ mới có dịp lên Tây Tạng chỉ để ngồi uống với nhau chén trà như thế?

Tôi rời Nam-tso khi ánh nắng vẫn chưa tắt trên mặt hồ. Cảnh hồ đẹp vô song nhưng tôi cầm lòng không bước xuống để chạm vào mặt nước. Có lẽ mai sau tôi sẽ luyến tiếc vì bỏ mất cơ hội đó, cũng có thể lắm bởi tôi vẫn tham-sân-si

Sang ngày thứ 9 của cuộc hành trình, tôi tạm biệt vùng U để trải nghiệm một điều thú vị khác: đi trên tuyến đường sắt độc đáo nối liền Tây Tạng và người anh em thuở trước: cao nguyên Thanh Hải. Có 2 điều tôi thích thú với đường sắt này, không phải ở những cái “nhất” đã được nghe liệt kê: một là tôi có dịp được ngắm phong cảnh giao thoa giữa ‘Tạng’ và ‘Thanh’ hay chính là vùng U với Amdo thuở trước; hai là tôi có thời gian ngồi chép lại đọc lại những điều dồn dập tôi đã thấy trong vài ngày trước mà cho dù chuẩn bị kỹ càng trước khi đi nhưng tôi không thể ngờ bức màn phía Tây lại che phủ quá nhiều điều lạ lẫm phải tai nghe mắt thấy mới thoả lòng.

Tàu hoả thì vẫn là tàu hoả, nhưng nếu nói thế mà bỏ qua cung đường này thì quả là đáng tiếc. Hãy thử tưởng tượng khi bạn đang yên vị trên tàu chạy băng băng giữa cao nguyên thì nhác thấy 1 đàn cừu con trắng con đen đang bê tha gặm cỏ, bạn vừa nâng máy lên chưa kịp chỉnh ống kính thì tàu chạy qua mất, tiếc lắm, giận lắm, lại chong mắt lên chờ đợi và mai phục, cứ thế bạn luôn tay bấm máy, thu hết những gì đẹp và không đẹp lộ qua khung cửa. Tôi dám cá rằng có những lộ trình đẹp mà trong đời bạn chỉ đi với số lần cực kỳ hữu hạn, đường sắt Thanh-Tạng là một trong số đó!

Trong một phút vô tình của những lúc chong mắt chờ đợi và mai phục đó, dãy Khả Khả Tây Lý chào tôi từ phía rất xa. Sẽ có ngày tôi tạ lỗi với Kekexili bằng những hình ảnh đầy đủ và sống động hơn thay lời chào vội vàng tối nay:

Hành trình càng thú vị thì thời gian như càng trôi nhanh hơn! Khi bóng tối đã buông, tôi cảm tưởng con tàu rất đơn độc, phóng băng băng một mình qua thảo nguyên lúc này đã rơi vào tĩnh mịch. Nhìn đồng hồ tôi giật mình khi thấy đã sang ngày mới, đây là lần duy nhất trong 11 ngày xuôi ngược mà tôi thức khuya đến thế. Một ngày đi qua, tôi đã ở trong địa phận Thanh Hải, và phía xa mặt trời cao nguyên đang lên dần với sắc đỏ dịu mắt khác với cái chói chang thường gặp ở Tây Tạng. Tôi không nhớ lần cuối tôi được nhìn thẳng vào mặt trời như thế này là dịp nào:

Ra đến Tây Ninh, Thanh Hải, tôi tưởng rằng những gì ấn tượng nhất đã qua và ngày cuối là lúc nghỉ ngơi thư giãn nhưng tôi đã nhầm! Một vùng đất tiếp giáp với Tân Cương, Tây Tạng, Cam Túc, Tứ Xuyên; là mái nhà chung của người Tạng, Hán, Hồi, Mông Cổ; là quê hương của những con sông lớn tầm thế giới như Hoàng Hà, Trường Giang, Mekong; cũng là nơi hơn 650 năm trước sinh ra tổ sư Hoàng Mạo Giáo và sau đó gần 600 năm lại đản sinh vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso. Nơi đây kỳ lạ và thâm nghiêm vượt xa tầm với của bất cứ ai!

Điểm đầu chúng tôi ghé thăm là hồ Thanh Hải rộng mênh mông, xếp hạng là hồ nước mặn lớn nhất trên đất liền của Trung Hoa. Tôi dám cược rằng sớm thôi người Tạng cũng sẽ mất tiền để vào khu vực này vì quanh hồ người ta đang hối hả xây dựng khu resort mang phong cách Tạng! chắc sẽ là khu resort đầu tiên trên thế giới mang phong cách này cũng nên! Điểm dừng thứ hai là tu viện Tháp Nhĩ nằm ở vùng Hoàng Trung, ngôi đạo tràng lớn nhất và quan trọng nhất của phái Cách Lỗ ở Thanh Hải và được mệnh danh là tiểu Potala của Tây Tạng.

Bóng cũ dáng xưa có phần mai một, tu viện Taer nay đã mấy trăm năm tuổi. Nền cũ nơi mẹ Tông Khách Ba dựng stupa cho Ngài gửi gắm vào đây bao nhiêu tình mẫu tử giờ được tôn tạo lớn hơn, đẹp hơn; câu chuyện xung quanh tuổi thơ và sự đản sinh khác thường của Ngài cũng được thêu dệt bóng bẩy hơn. Niềm tin tôn giáo vừa khiến tâm hồn người ta thảnh thơi hướng thiện nhưng cũng là cách sinh lợi cho nhiều người; âu là thuận thời thế thế thời phải thế.

Taer có đến 4 học viện với nội dung học thuật rộng lớn nhưng có vẻ việc Biện kinh tranh luận không được đề cao như trong Lhasa. Tăng sĩ trẻ có, già có, nhìn vừa gần gũi với đời, vừa xa rời lạc lõng. Nếu đem thước đo tiêu chuẩn của giới luật ngày xưa mà xét thì chắc là ngày nay chắc đã xé rào nhiều. Đúng là sự đời vần vũ như mây gió, đổi thời gian đổi cả không gian

Chỉ ở được Thanh Hải 1 ngày tôi đã phải nói lời chia tay và cũng là lúc tạm biệt Tây Tạng, mảnh đất rộng lớn linh thiêng. Thiên Lý Nhãn nhìn xa muôn dặm, liệu có thấy hết những núi cao vực sâu chốn này? Thuận Phong Nhĩ nghe ngoài nghìn trượng, liệu có rõ câu chú ngân nga trong nắng trong mưa và trong tim mỗi người dân Tạng? Gió mây sẽ lại đi về trên nóc nhà thế giới như tự ngàn năm nay vẫn chẳng đổi thay, sẽ tiếp tục thổi tung bay triệu triệu lá cờ ngũ sắc in kinh Phật giăng khắp cao nguyên. Trong lòng tôi tràn đầy xúc động và hạnh phúc bởi cũng có ngày tôi bắt kịp chính mình trong giấc mơ khi trước, bắt kịp mây gió để được một lần trong đời đặt chân đến nơi đây.

3. Ngày về

Tôi rời cao nguyên Thanh-Tạng trong đêm, sáng mai tôi sẽ trở lại với cuộc sống thường nhật ồn ào bận rộn. Sau này có dịp trở lại không biết cảm giác của tôi sẽ ra sao? Mừng vì lại được rong ruổi trên đường thiên lý thăm viếng cố nhân? Lo vì khi đó sức khoẻ và nhiệt tâm liệu còn mạnh mẽ? Buồn vì thời gian tuy trôi nhanh nhưng chưa bằng những biến thiên đa cực cuồn cuộn trong lòng Tuyết Quốc? hay tôi sẽ sợ vì không dám đối mặt với một Tây Tạng quá mới mẻ? Tôi vừa thu được và vừa đánh mất mười một ngày! Có hề gì đâu? Thời gian và mảnh đất này thật là hào phóng. Tây Tạng của ngày hôm qua, hôm nay, và mai sau sẽ luôn hào phóng như thế, dang tay chào đón những ai muốn đến đây để chiêm bái sự hùng vĩ của thiên nhiên hoà quyện với cái đẹp tâm linh của nền Phật giáo Đại thừa Mật tông thâm hậu, dẫu biết rằng vạn vật trên đời không ra khỏi vòng sinh-diệt-tái sinh. Với cuộc đời này, với sự hào phóng ấy, phải sống nhanh lên, có ích hơn, và không chờ gì cả. Có lẽ ngày xưa chính là các Ngài sống thế!

Khi tôi chia sẻ câu chuyện của mình về Tuyết Quốc, người trẻ thì háo hức, người già thì trầm ngâm. Có người hỏi vì sao tôi có nhiều đam mê với mảnh đất Tây Tạng và văn hoá nơi đây đến thế? Tôi đồ rằng kẻ ngoại đạo như tôi giống tấm vải trắng dễ ăn thuốc nhuộm, hiểu biết hạn hẹp của tôi giống cốc nước vơi rất dễ đong đầy; nên khi vén mây bước vào thế giới siêu thực này, tôi đã được thoả lòng mong đợi ^^

Giữa bầu trời lịch sử, ấy muôn triệu ánh sao
Trong dân gian vạn thưở, ấy muôn triệu đoá hoa!

Hôm tôi ở Singapore trời cũng nắng, nhưng là cái nắng “điều hoà”, một thứ nắng xoàng.

Câu chuyện tôi kể các bạn nghe đến đây là hết.

Tây Tạng Du Ký – Ngày 11: Taer Monastery

Sáng ngày 11 chúng tôi dậy không vội vã, hôm nay là ngày cuối trên chuyến hành trình ghé thăm cao nguyên 🙂 Sau khi ăn sáng, cả đoàn rời khách sạn để đi thăm tu viện Hoàng Giáo lớn nhất Thanh Hải: Taer Monastery, nằm ở thị trấn Hoàng Trung (Huangzhong) cách Tây Ninh 26km về phía tây nam. Trời Thanh Hải hôm nay vẫn nhiều mây, không khí se se lạnh tựa như đầu thu! Xe bon bon chạy, cô hướng dẫn viên du lịch người gốc Thành Đô say sưa kể truyện về mảnh đất Thanh Hải và địa danh mà chúng tôi sắp ghé thăm …

1. Lan man lúc chạy xe:

Phật giáo Đại thừa Mật tông Tây Tạng sở dĩ đạt được những thành tựu rực rỡ như ngày nay là trải qua quá trình tôi luyện hun đúc chọn lọc nghìn đời mỗi khi nhắc đến người ta không thể quên những cái tên huyền thoại theo dòng thời gian. Trong đó nổi bật lên 1 nhà cải cách lỗi lạc, người đã có công xiển dương Phật giáo, hợp nhất Tăng chúng, vạch lại con đường tu học nghiêm cẩn, để từ đó xây dựng tông giáo lớn nhất cao nguyên Thanh-Tạng. Không ai khác chính là đại sư Tông Khách Ba (Tsongkhapa), sư tổ của phái Cách Lỗ (Gelugpa Sect). Người đời sau đến thăm Tây Tạng thường ghé những tu viện lớn như Cách Đăng (Ganden Monastery), Sắc Nhạ (Sera Monastery), Triết Phong (Deprung Monastery), Trát Thập Luân Bố (Tashilhunpo); những nơi này luôn có các gian điện thờ vinh danh ông. Bài viết hôm nay xin đưa bạn đọc xuôi ngàn cây số về lại 1 tu viện khác xa xôi hơn nằm trong vùng Thanh Hải, tu viện Tháp Nhĩ (Taer Monastery), để tìm hiểu về một giai đoạn khác của cuộc đời Tông Khách Ba – những tháng năm niên thiếu.

Đại sư Tông Khách Ba sinh năm 1357 ở vùng Tông Khách, Thanh Hải, Tây Tạng và được tin là hoá thân của trí huệ Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi (Manjusri); khi đó nhắm vào thời nhà Nguyên đang chiếm quan nội, còn Phật giáo Tây Tạng đang trong giai đoạn kết thân chính trị với hoàng tộc. Lúc đản sinh ngài Tông Khách Ba cũng có nhiều truyện dị thường được chép lại. Trong lúc đậu thai 9 tháng, rất nhiều điềm lành xuất hiện trong nhà và quanh vùng. Ngày 28/10/1357, khi hư không thanh tịnh an lành thì ngài hạ sanh, tướng mạo lọt lòng đã an nhiên phi phàm, dự báo sau này sẽ có cơ duyên hộ trì Phật pháp làm lợi chúng sinh.

Đoạn nhau thai mẹ ngài đem chôn xuống đất, từ đó mọc lên một tàng cây lớn xum xuê 10 nghìn lá mà mỗi lá đều có chữ Văn Thù, nên người quanh vùng đều rất kính trọng gọi đó là cây Cổ Lai Chiên Đàn (tức là cây có trăm ngàn tượng Phật). Hàng năm mùa thu lá rụng, người hành hương đến đây đều nhặt lá cây đem về. Du khách ngày nay đến Thanh Hải thăm tu viện Taer cũng sẽ gặp cây này trong khuôn viên. Tương truyền con số 10 nghìn lá của cây Chiên Đàn chính là khởi nguồn của việc làm 10,000 lần nghi lễ Ngũ thể nhập địa của Tăng chúng và người mộ đạo sau này 🙂

Lên 17 tuổi, năm 1373, Tông Khách Ba rời quê nhà để vào Lạp Sát (Lhasa) tu học, từ đó mở đầu giai đoạn ngài bắt đầu lãnh giáo những tinh hoa của tông phái Phật giáo Tây Tạng khi đó gồm cả Ninh Mã (Nyingma Sect), Ca Nhĩ Cư (Kagyupa Sect), và Tát Ca (Sakya Sect). Mẹ ngài khi cuối đời có viết thư nhắn gọi Tông Khách Ba về, nhưng vì đường xá xa cách, lại vướng việc học và truyền đạo mà ngài không về được. Tông Khách Ba đã hoạ hình mình trong tranh rồi gửi về cho mẹ an tâm. Đồng thời trong thư gửi mẹ, ngài viết: “… con nay ở xa không về được quê nhà, xin mẹ dựng cho con 1 bảo tháp, thân không về được nhưng lòng hướng về …”. Gia đình ông y lời đã cho xây 1 stupa ngay cạnh khuôn viên tán cây Chiên Đàn. Mẹ ông mất mà không kịp gặp mặt con, cũng chưa kịp nhìn thấy những thành tựu lớn lao mà con trai bà dùng cả cuộc đời mình gây dựng được cho Phật giáo Tây Tạng. Còn đại sư cũng viên tịch vào năm 1419. Đúng 200 năm sau ngày sinh của Tông Khách Ba, năm 1557, chúng giáo tăng ni đệ tử môn đồ của Hoàng Giáo do con trai bà kiến lập uống nước nhớ nguồn đã trở lại Thanh Hải, dựng lên trên nền đất cũ một tu viện lớn bao bọc ngoài stupa xưa. Đó chính là tu viện Tháp Nhĩ (Taer Monastery), 1 trong 6 ngôi đại tùng lâm quan trọng của Cách Lỗ tông trên toàn Tây Tạng. Tên tu viện theo tiếng Tạng có nghĩa là stupa có trước, tu viện xây sau, độc đáo duy nhất khác hẳn phong cách mọi tu viện khác (thường xây tu viện xong mới dựng các stupa bên trong). Ngoài ra do sự tích cây 10,000 lá trong tu viện mà nơi đây còn có tên là Thập Vạn Phật (Kumbum Monastery).

Nhiều trăm năm sau, du khách đến Thanh Hải vẫn được nghe kể lại câu chuyện xúc động này, lại được đưa vào khuôn viên tu viện để xem cây Chiên Đàn (vẫn xanh tốt cho đến ngày nay) và chiêm bái stupa cổ mà mẹ Tông Khách Ba đã cho dựng để gửi gắm tấm lòng của người con xa xứ, càng thêm ngưỡng mộ bề dày văn hoá tâm linh của người Tạng trải bao thế hệ vẫn rực rỡ mê đắm vượt trên thách thức của thời gian 🙂

2. Tu viện Tháp Nhĩ:

Câu chuyện trên tham khảo nguồn từ Đại tạng kinh Việt Nam, Vạn Phật Đảnh, và dựa theo lời kể của hướng dẫn viên du lịch ở Thanh Hải mà kính bút chép ghi; mọi sơ sót ngoài ý muốn mong được bạn đọc lượng thứ. Lan man kể cũng đã dài, xin gửi bạn đọc vài hình ảnh của tu viện này.

Cổng vào chánh Đông của tu viện Taer Monastery:

Bước vào khuôn viên tu viện, du khách có thể dễ dàng nhận ra sự pha trộn phong cách Hán-Tạng rõ rệt trong bố cục và màu sắc toàn viện.

Từ giữa sân lớn của tu viện có thể thấy trước mặt là tháp mái vàng của Hộ Pháp Điện (Dharma Protector Temple):

Đối diện Hộ Pháp Điện là cửa vào lớn của tu viện, nhưng không thấy du khách qua lại, có lẽ đang trong quá trình tu sửa. Đây cũng là chỗ mua vé để vào thăm các điện thờ trong khuôn viên Taer Monastery. Vé vào cửa in đẹp và bên trong là đĩa CD loại nhỏ chứa các thông tin giới thiệu về tu viện ^^

Phía bên phải của sân là Như Lai Bát Tháp (8 Great Stupas) linh thiêng của người Tạng. Người hành hương đến đây đều bái lạy các stupa này trước khi đi vào thăm các khu điện:

Đây là 1 quần thể đầy đủ cả 8 stupa trong tín ngưỡng Phật giáo Tây Tạng kể lại những dấu ấn quan trọng trong cuộc đời của Đức Phật Lịch sử Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni). Chắc hẳn bạn đọc còn nhớ, một trong những kiến thúc stupa quen thuộc này (tháp muôn cửa – stupa of many doors) đã được người Tạng áp dụng tài tình để dựng lên cả 1 tháp lớn giữa trấn Gyantse vùng Tsang và cũng có tên là Thập Vạn Phật tháp (Kumbum, Palkhor Chode Monastery)

Nhác trông màu sắc tô điểm trên stupa có thể nhận thấy các tháp này đều được sơn sửa lại thường xuyên:

Phía xa là cổng vào chánh Tây của tu viện nằm ngay dưới khối 3 stupa trắng, giờ là bãi đậu xe riêng của khách đến thăm tu viện:

Theo đường xi măng sạch sẽ, chúng tôi bắt đầu đi vào khu điện đầu tiên: Hộ Pháp Điện, nơi có mural và tượng thờ của các vị Thiên Vương và hộ pháp nhà Phật. Điện này còn được biết đến với tên Tiểu Kim Ngoã Điện (Lesser Hall of Golden Roof):

Ở cửa vào mỗi điện là máy đọc thẻ, du khách dùng chính vé vào cửa để đưa qua máy quét trước khi vào, phương thức này khá hiện đại và là lần đầu tiên chúng tôi gặp khi đi du lịch Tây Tạng 😀 Việc chụp ảnh bên trong mỗi toà điện của tu viện Taer bị cấm rất ngặt nên hầu như ít ai có ảnh chụp kiến trúc bên trong của mỗi điện (>_<). Trên bốn phía tường bao của Tiểu Kim Ngoã Điện có treo rất nhiều đầu bò, linh dương, ngựa trắng được bảo quản tốt theo thời gian, không rõ bí quyết nhồi thú của người Tạng như thế nào mà các con vật này nhìn đều thật và sống động!

Ra khỏi Tiểu Kim Ngoã Điện là đường sang khu điện thứ hai, nơi thờ phụng mẹ của ngài Tông Khách Ba mà người hành hương tìm đến để bày tỏ lòng thành kính. Trên đường du khách sẽ bắt gặp stupa Niết bàn (Stupa of Nirvana) – stupa duy nhất trong Như Lai Bát Tháp không có 4 tầng Tứ diệu đế ở đáy, tượng trưng cho sự viên mãn tu thành chánh quả:

Du khách tranh thủ chụp ảnh với kinh luân đồng lớn ngay dưới chân stupa:

Bên trong khu điện thứ 2, chúng tôi bắt gặp tảng đá dựng ngay giữa vườn, tương truyền là phiến đá mà mẹ đại sư Tông Khách Ba thường dựa vào khi có mang ngài. Trên phiến đá bóng nhẫy dính chi chít các đồng tiền xu và tiền giấy của khách thập phương, hỏi ra mới biết người dân nơi đây đã bôi rất nhiều mỡ bò Yak lên đá, nhờ thế mà tiền cúng có thể dính vào được 😀

Vì không được chụp ảnh, chúng tôi bái lạy các tượng thờ rồi nhanh chóng ra khỏi điện, điểm đến tiếp theo là Đại Kim Ngoã Điện (Great Hall of Golden Roof). Một vài hình ảnh khi đi bộ trong tu viện:

Khi đi qua khu học viện của Taer Monastery, chúng tôi bắt gặp những nhà sư còn rất trẻ trong màu áo tu đỏ thắm với túi da, điện thoại, giày tây … Được biết có tổng cộng 4 học viện lớn: Hiển Tông học viện, Mật tông học viện, Thời luân học viện, và Y học viện nằm rải rác trong khuôn viên:

Trước khi bước đến khu Đại Kim Ngoã Điện, cũng là khu vực trung tâm của toàn tu viện, du khách sẽ đi qua sân rộng của Đại Kinh Đường (Great Hall of Meditation), nơi có rất nhiều các nhà sư trẻ và người Tạng đang làm lễ ngũ thể nhập đia:

Quy mô Đại Kinh Đường cực lớn, kiến trúc nổi bật phong cách Tây Tạng với những biểu tượng cát tường Phật giáo bằng vàng rực rỡ trên nóc:

Là cờ cuộn Phật giáo (Dhvaja):

Bánh xe Pháp (Dharma Whee) và cặp hươu vàng chính giữa nóc điện:

Bên trong Đại Kinh Đường khá tối nhưng du khách vẫn cảm nhận được sự hoành tráng toát lên từ bốn phía điện, trên các kệ là hàng nghìn tượng Phật nhỏ soi sáng bởi 1000 ngọn đèn mỡ bò Yak đặt dọc theo tường thờ phụng mỗi vị. Chính giữa điện là bức tượng Quán Thế Âm Bồ Tát (Avalokitesvara) lớn, bên cạnh là tượng thờ của Ban Thiền Lạt Ma đời thứ 9 và thứ 11 – một nét tương đồng với tu viện Tashilhunpo ở Shigatse! Ra khỏi Đại Kinh Đường, du khách sẽ theo cửa hông để đi sang các khu điện đằng sau:

Phía sau Đại Kinh Đường là quần thể quan trọng nhất của tu viện Tháp Nhĩ bao gồm 4 khu vực: Bếp lớn (The Great Kitchens) bên trong có 3 vạc đồng để nấu ăn cho Tăng chúng — gian này không mở cửa cho du khách tham quan, điện thờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni), điện thờ Phật tương lai Di Lặc Bồ Tát (Future Buddha Maitreya), và quan trọng nhất chính là Đại Kim Ngoã Điện (Great Hall of the Golden Roof) ^^ 4 khu này quần tụ xung quanh cây Cổ Lai Chiên Đàn nằm ngay trước Đại Kim Ngoã Điện. Du khách ai cũng thích thú không gian rực rỡ của khu vực này nhưng đáng tiếc không ai được chụp ảnh 😦

Cây Cổ Lai Chiên Đàn vẫn xanh um giữa sân và được quây bảo vệ bởi hàng rào gỗ thấp, người Tây Tạng làm lễ bái lạy ở đây rất đông. Dọc theo các bức tường trong khuôn viên là những chiếc kinh luân cổ kích thước to như người thật quay trên những giá gỗ đen nhánh bóng nhẫy dấu tay. Phía trên nóc Đại Kim Ngoã Điện là mái vàng rực rỡ, bên trong điện là stupa mà mẹ Tông Khách Ba đã xây cho ngài năm xưa. Qua thời gian được trùng tu nâng cấp, tháp nay phủ bạc cao đến 11m. Bước vào trong điện, chúng tôi trật tự dò từng bước đến dưới chân stupa để ngẩng đầu chiêm bái Phật tích quý giá nhất Thanh Hải, trong đầu vẫn ngân nga câu nói của người khai tông lập phái Hoàng Mạo Giáo viết thư gửi mẹ … “thân không về được, nhưng lòng hướng về” … vậy mà đã hơn 500 năm rồi đấy! Cầm lòng không chụp ảnh, chúng tôi rời khỏi Đại Kim Ngoã Điện, tiếp tục con đường leo ngược dốc của tu viện Taer đi sang khu tiếp theo.

Tuy xây dọc theo sườn núi, tu viện Taer không quá dốc, đường đá rộng rãi và thoải mái, chính phủ Trung Quốc chắc đã đổ vào đây rất nhiều tiền để tôn tạo và quy hoạch qua nhiều thời kỳ:

Khu điện cuối cùng chúng tôi ghé thăm thực ra là gian trưng bày độc đáo chỉ có ở Thanh Hải: tượng làm bằng bơ bò Yak (Hall of Butter Sculptures), vốn là 1 nghệ thuật tự hào của các nghệ nhân tăng sĩ trong tu viện Taer nổi danh toàn vùng Thanh-Tạng từ thế kỷ 16 đến nay:

Được biết các nghệ nhân này đều phải bỏ ra nhiều tháng công sức để nhào nặn và làm thành các bức tượng để kịp tham dự Tibetan Butter Sculpture Festival (diễn ra trung tuần tháng 2 hàng năm) và tuỳ theo chủ đề của mỗi năm mà sẽ có những tượng hay bức hoạ dạng lớn được làm, ví dụ làm tượng đại sư Tông Khách Ba, tượng Đạt Lai Lạt Ma thứ 5, hay câu chuyện Văn Thành công chúa vào Tây Tạng … Chủ đề năm nay là Phật tương lai Di Lặc (Future Buddha Maitreya). Vì không được chụp ảnh trong gian điện nên mượn tạm 1 tấm trên mạng để bạn đọc hình dung rõ ràng hơn về công phu và tầm vóc các bức tượng làm hoàn toàn từ bơ bò Yak với độ chinh xác và tinh tế bất ngờ:

Ngay phía sau bức tượng này sẽ là bức tượng đã tham gia dự thi năm ngoái 😀 cả 2 bức tượng đều đươc đặt trong lồng kính giữ lạnh khi chúng tôi đến thăm, để chống chọi với cái nắng ngày hè có thể làm chảy các tác phẩm.

Rời khỏi Sculpture Hall, chúng tôi theo con dốc thoải trở ra ngoài cổng, tranh thủ ghi lại những khoảng khắc trước khi rời tu viện Tháp Nhĩ:

Và những mái vàng lấp lánh bên trong tu viện:

Tạm biệt tu viện Tháp Nhĩ và câu chuyện về tuổi thơ của đại sư Tông Khách Ba, chúng tôi ai cũng tấm tắc vì đã có dịp hiểu thêm những điểm độc đáo của vùng Thanh Hải mà trước giờ ít nghe nhắc đến 🙂 Ra đến cổng chánh Đông tu viện, chúng tôi tranh thủ đi dạo nhâm nhi món khoai nướng trước khi theo xe nhắm hướng sân bay trực chỉ:

Từ sân bay Tây Ninh, chúng tôi đáp chuyến bay chiều đi Thành Đô và ngay trong đêm đó bay ra khỏi Tứ Xuyên, tạm biệt Trung Hoa và cũng là kết thúc chuyến đi khám phá phía Tây lần này 🙂 Ngồi trên máy bay chúng tôi vẫn còn ngâm ngợi mãi, nhìn biểu tượng in trên tờ tiền 50 RMB mà không khỏi bâng khuâng về 1 miền đất vừa thật gần không thể tách rời vừa xa xôi như là ảo mộng …

Chuyến bay đêm ai cũng đã say ngủ, nhưng tôi biết có những đôi mắt vẫn mở chong chong nhìn đèn tín hiệu chớp ngoài cánh máy bay trong mây mù giữa lưng chừng trời, hay bởi lòng vẫn còn đau đáu về những điều tuyệt diệu được thấy qua ở phía dưới kia … cao vài nghìn mét trên mặt nước biển, xa trong dãy Hi Mã Lạp Sơn, sâu giữa những hồ nước lớn và rừng cây … một bức tranh Phật giáo tuyệt luân toàn cảnh vẫn trường tồn qua không thời gian … Bài viết ngày 11 đến đây là kết thúc, xin hẹn bạn đọc trong bài cuối – Khúc vĩ thanh Tây Tạng.